Thứ Ba, 12 tháng 7, 2011

BÀI VIẾT VỀ HÔN NHÂN

BÀI VIẾT VỀ HÔN NHÂN

Chu Xuân Minh
Phó Chánh toà Dân sự TANDTC
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
Quan hệ hôn nhân là loại quan hệ tồn tại trong một thời gian dài. Nhà nước ta đã 3 lần ban hành Luật Hôn nhân và Gia đình (1959, 1986, 2000). Thời kì hôn nhân của một quan hệ hôn nhân có thể bắt đầu trước khi ban hành Luật HN-GĐ 1959 đang có hiệu lực và chấm dứt ở thời điểm Luật HN-GĐ 1986 đang có hiệu lực (kết hôn năm 1965 và ly hôn năm 1995, chẳng hạn). Vấn đề đặt ra là, áp dụng Luật HN-GĐ ở thời điểm nào (khi kết hôn hay khi ly hôn) để giải quyết tranh chấp về quan hệ HN và GĐ. Thực tiễn cho thấy trong quá trình xét xử còn có nhiều Thẩm phán hiểu chưa đúng hiệu lực áp dụng của Luật HN-GĐ và do vậy, đã không xác định đúng tính chất của quan hệ hôn nhân (hợp pháp hay không hợp pháp), tính chất pháp lý của tài sản (tài sản riêng hay tài sản chung) nên đã xác định không đúng về quyền, nghĩa vụ của các chủ thể. Trong nhiều đơn khiếu nại, kháng cáo, Tòa án thường gặp câu hỏi là: "Tại sao quan hệ hôn nhân của cha mẹ chúng tôi đã chấm dứt từ lâu mà lại mang pháp luật hiện nay ra để áp dụng, soi xét?". Và cũng có câu hỏi ngược lại: "Tại sao Luật Hôn nhân và Gia đình 1959 đã hết hiệu lực, Tòa án vẫn còn áp dụng để phán quyết tài sản riêng là tài sản chung?".
Đối với việc giải quyết chấm dứt quan hệ hôn nhân thì cần xác định tính chất quan hệ hôn nhân ở thời điểm thụ lý vụ án. Nhưng đối với những việc xin chia thừa kế thì cần xác định tính chất quan hệ hôn nhân ở thời điểm mở thừa kế. Từ việc xác định được tính chất của quan hệ hôn nhân mới xác định đúng được các quyền, nghĩa vụ cụ thể.
Ví dụ: Quan hệ giữa Ông A, và bà B được xác định là quan hệ hôn nhân hợp pháp thì khi ông A chết trước, bà B có quyền hưởng thừa kế của ông A, và việc chia tài sản chung của ông A và bà B tuân theo Luật Hôn nhân vàGia đình; nếu giữa hai ngưòi không được công nhận là hôn nhân hợp pháp thì bà B không được hưởng thừa kế của ông A và việc chia tài sản chung tuân theo quy định của Luật Dân sự.
Pháp luật dân sự thường là không có hiệu lực "hồi tố" vì pháp luật dân sự chủ yếu là xác định các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, hướng dẫn xử sự của các chủ thể. Để xác định một chủ thể có những quyền gì, phải thực hiện những nghĩa vụ gì, xử sự của họ có hợp pháp không là phải căn cứ vào pháp luật ở thời điểm giao dịch. Luật HN-GĐ tuy mang tính chất của luật dân sự nói chung nhưng, không phải là không có những quy định có tính chất "hồi tố" (sẽ nói ở phần sau).
Trong khoảng thời gian có hiệu lực của một luật cụ thể (có thể là Luật 1959, 1986, 2000) bao giờ cũng có hệ thống những văn bản pháp luật để giải thích, hướng dẫn áp dụng luật đó. Ví dụ: Để hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình 1959 (thời gian có hiệu lực từ 3/1/1987 đến 31/12/2000) có Nghị quyết từ 13/1/1960 đến 2/1/1987) có Thông tư 60 ngày 22/2/1978 của Tòa án nhân dân tối cao…
Tương tự như vậy, để hưỡng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 (thời gian có hiệu lực từ 3/1/1987 đến 31/12/2000) có Nghị quyết 01/NQ-HĐTP ngày 20-1-1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao…
Đáng lưu ý là, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2001) đã có nhiều văn bản hướng dẫn áp dụng và đặc biệt là có nhiều văn bản pháp luật hướng dẫn áp dụng của Chính phủ. Nhiều văn bản pháp luật của Chính phủ không chỉ bao gồm những quy phạm mang tính chất của luật dân sự, không phải chỉ để cơ quan hành chính thực thiện việc áp dụng luật mà còn để Tòa án phải áp dụng những quy định này khi giải quyết các án kiện về hôn nhân và gia đình (ví dụ Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình).
Trong phạm vi thời gian có hiệu lực của một luật cụ thể, khi có văn bản hướng dẫn áp dụng (văn bản dưới luật) thì chúng ta phải tuân thủ các quy định cụ thể của văn bản hướng dẫn đó. Tuy nhiên, đối với những vấn đề chưa có hướng dẫn áp dụng thì phải căn cứ các quy định của Luật (tinh thần và lời văn của điều luật, các nguyên tắc chung, và cả ý thức pháp luật) để áp dụng giả quyết các vụ án chứ không thể cho rằng chưa có hướng dẫn thì chưa áp dụng.
Ví dụ: Đã có quy định về việc hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên (Điều 41 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000). Tuy đây là quy định mới, chưa có hướng dẫn nhưng Toà án không thể từ chối không thụ lý, xét xử vì chưa có hướng dẫn áp dụng.
Về phạm vi áp dụng những văn bản hướng dẫn của Luật cũ, nay có Luật mới thì có còn giá trị áp dụng hay không, chúng tôi có ý kiến như sau:
Những vấn đề trước đây đã hướng dẫn nhưng nay đã có hướng dẫn thay thế thì phải áp dụng hướng dẫn mới. Ví dụ: Trước đây đã có hướng dẫn xác định về tiêu chí hôn nhân thực tế. Nay nếu quan hệ hôn nhân thực tế vẫn tiếp tục tồn tại thì tiêu chí xác định lại theo hướng dẫn mới (NQ 35/2000 và TTLT 01/2001).
Nhưng nhiều vấn đề đã được hướng dẫn trước đây, nay chưa có hướng dẫn mới và hướng dẫn cũ không trái với các quy định của Luật mới thì chúng ta có quyền và cần thiết phải vận dụng những hướng dẫn trước đây. Ví dụ: Thông tư số 01 Tòa án nhân dân tối cao ngày 6/1/1964; NQ 01/NQ-HĐTP ngày 20/1/1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao…
Tuy nhiên cần lưu ý là: Những văn bản pháp luật trước đây vẫn có giá trị áp dụng là những hướng dẫn xét xử, giải quyết án kiện còn những văn bản pháp quy có tính hướng dẫn xử sự của các chủ thể (Ví dụ: Điều kiện kết hôn, thủ tục kết hôn) thì không thể còn giá trị để hướng dẫn sau khi Luật cũ hết hiệu lực.
Dưới góc độ nghiên cứu về hiệu lực áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình theo thời gian, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin trao đổi về việc áp dụng hiệu lực theo thời gian để xác định quan hệ hôn nhân hợp pháp đối với trường hợp không tuân theo nguyên tắc một vợ một chồng, trường hợp không đăng ký kết hôn, và vấn đề xác định tài sản riêng của vợ, chồng.
II. XÁC ĐỊNH HÔN NHÂN HỢP PHÁP TRONG TRƯỜNG HỢP KHÔNG TUÂN THEO NGUYÊN TẮC MỘT VỢ MỘT CHỒNG
1. Trường hợp kết hôn trước khi Luật Hôn nhân Gia đình có hiệu lực:
Do đặc điểm lịch sử của nước ta, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 (có hiệu lực ngày 13/1/1960) sau khi ban hành, mới chỉ có hiệu lực ở miền Bắc. Theo quy định của Luật này thì kể từ 13/1/1960, những trường hợp kết hôn vi phạm nguyên tắc mộtt vợ một chồng là hôn nhân không hợp pháp. Các quan hệ hôn nhân xác lập trước thời điểm 13/1/1960 không bị điều chỉnh bởi nguyên tắc của Luật hôn nhân và Gia đình 1959 nên dù có quan hệ hôn nhân nhiều vợ, nhiều chồng vẫn được coi là hợp pháp (nói chính xác là không trái pháp luật). Những quan hệ hôn nhân này là hợp pháp nên các chủ thể (vợ hoặc chồng) có quyền và nghĩa vụ theo quan hệ hôn nhân hợp pháp. Cụ thể như, họ có quyền thừa kế tài sản của nhau nhưng nếu họ không được Tòa án cho ly hôn mà đã kết hôn với người khác (kể từ thời điểm 13/1/1960) là trái pháp luật, hôn nhân sau không được công nhận.
Cũng cần lưu ý là, quan hệ hôn nhân nhiều vợ, nhiều chồng trước Luật Hôn nhân và gia đình 1959 có thể có đăng ký giá thú, cũng có thể không có đăng ký. Do tồn tại lịch sử, chúng ta không chỉ thừa nhận những quan hệ hôn nhân có đăng kí là hợp pháp mà cả những quan hệ hôn nhân thực tế cũng được coi là hợp pháp.
Ở miền Nam, thời điểm áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình 1959 là ngày 25/3/1977 (ngày ban hành Nghị quyết 76/CP công bố danh mục văn bản pháp luật áp dụng trong cả nước, trong đó có luật Hôn nhân và gia đình năm 1959). Tương tự như ở miền Bắc , những quan hệ hôn nhân xác lập trước ngày 25/3/1977 ở miền Nam không tuân theo nguyên tắc một vợ một chồng vẫn được công nhận hợp pháp.
2. Trường hợp công nhận hôn nhân hợp pháp theo TT60/TATC ngày 22/2/1978 của Tòa án nhân dân tối cao.
Đối tượng đề cập trong Thông tư 60 là bộ đội, cán bộ có vợ, có chồng ở miền Nam tập kết ra miền Bắc, lấy vợ, chồng khác. Thông tư 60 quy định: Nay nếu vợ hoặc chồng ở miền Nam vẫn không có quan hệ hôn nhân mới và vẫn muốn duy trì quan hệ hôn nhân trước đây thì công nhận cả hôn nhân trước đây và hôn nhân mới là hôn nhân hợp pháp.
Cần chú ý là Thông tư 60 quy định hướng giải quyết khá cụ thể cho từng loại quan hệ hôn nhân và chỉ với những quan hệ hôn nhân được xác lập trong thời gian từ sau ngày ký Hiệp định Giơnevơ đến ngày Luật Hôn nhân và gia đình áp dụng trong cả nước (từ ngày 20/7/1954 đến 25/3/1977).
Quy định của Thông tư 60 là trường hợp công nhận hôn nhân hợp pháp đặc biệt trên cơ sở xét đến hoàn cảnh đặc biệt của chiến tranh, yêu cầu ổn định quan hệ gia đình phù hợp đạo lý và giải quyết hậu quả đặc biệt của chiến tranh.
Vấn đề đặt ra là, trường hợp cán bộ, bộ đội đã có quan hệ hôn nhân ở miền Bắc, vào miền Nam chiến đấu, công tác lại có quan hệ hôn nhân mới ở miền Nam có được công nhận hôn nhân mới ở miền nam là hợp pháp theo quy định của Thông tư 60 hay không? Trước hết, phải xác định các đối tượng này không phải là các chủ thể thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông tư 60. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt do hoàn cảnh đặc biệt của chiến tranh và yêu cầu nhiệm vụ công tác mà có cơ sở xem xét giống như quy định tại Thông tư 60 thì chúng tôi cho rằng cũng cần công nhận quan hệ hôn nhân mới của họ là hợp pháp (cùng với quan hệ hôn nhân đã có trước ở miền Bắc). Ví dụ: Do điều kiện công tác mà cơ quan, tổ chức của một người đồng ý cho họ kết hôn (mặc dù họ đang có quan hệ hôn nhân ở miền Bắc)…
Riêng với trường hợp đang có quan hệ hôn nhân ở miền Bắc lại kết hôn ở miền Nam trong khoảng thời gian từ 1/5/1975 đến trước 25/3/1977 (thời gian mà đất nước đã thống nhất nhưng Luật Hôn nhân và gia đình chưa áp dụng ở miền Nam) thì không thể công nhận quan hệ hôn nhân sau là hợp pháp. Người đang có quan hệ hôn nhân ở miền Bắc biết rõ quan hệ hôn nhân mà họ đang có là hợp pháp và việc họ chưa được ly hôn lại kết hôn với người khác là trái pháp luât; điều kiện đất nước đã giải phóng, đã thống nhất nên không còn cơ sở để chấp nhận việc họ không thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình 1959.
3. Có nên có chế định về ly hôn thực tế
Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình thì việc ly hôn phải được Tòa án công nhận. Một quan hệ hôn nhân không bị coi là bất hợp pháp mà chưa được Tòa án cho ly hôn thì nó vẫn tồn tại cho dù vợ, chồng đã sống ly thân nhiều năm. Nếu người vợ hoặc người chồng đi kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân sau là bất hợp pháp. Tuy nhiên, nếu áp dụng nguyên tắc trên cho cả những quan hệ hôn nhân được xác lập trước khi Luật Hôn nhân và Gia đình có hiệu lực (trước 13/1/1960 ở miền Bắc và trước 25/3/1977 ở miền Nam) thì sẽ phát sinh những hậu quả pháp lý không ổn về mặt đạo lý.
Ví dụ 1: Ông A kết hôn với bà B năm 1955 tại Huế. Năm 1959, bà B vào Sài Gòn sinh sống và kết hôn với người khác. Ông A ở lại Huế và chung sống với người phụ nữ khác (có con chung). Năm 1995, bà B do vỡ nợ bị kê biên phát mại ngôi nhà mà bà đứng tên mua tại Sài Gòn năm 1960. Ông A khởi kiện cho rằng, ông vẫn là chồng hợp pháp của bà B và ngôi nhà bà B đứng tên mua năm 1960 chính là tài sản chung của ông và bà B, ông yêu cầu được chia 1/2 nhà.
Ví dụ 2: Ông X kết hôn với bà Y năm 1965 tại Mỹ Tho. Ông X tham gia kháng chiến và ở nhà bà Y đã có quan hệ hôn nhân với người khác. Sau ngày giải phóng, ông X có biết bà Y đã lấy chồng, và ông X thực tế không còn quan hệ vợ chồng với bà Y nữa. Năm 1978, ông X kết hôn với bà H (có đăng ký kết hôn). Năm 2000, ông X chết, năm 2001 và bà Y chết. Nay, các con chung của ông X và bà Y cho rằng quan hệ vợ chồng giữa ông X và bà Y là hợp pháp vì chưa có Tòa án nào cho ly hôn nên quan hệ vợ chồng giữa ông X và bà H là không hợp pháp; yêu cầu không cho bà H hưởng thừa kế của ông X.
Các yêu cầu khởi kiện của các đương sự ở hai ví dụ nêu trên (thực tế đã có những vụ kiện tương tự có cơ sở pháp lý nhưng lại gượng ép về mặt đạo lý. Trước khi Luật Hôn nhân và Gia đình có hiệu lực, ông A và bà B (trong ví dụ 1) cũng như ông X và bà Y (trong ví dụ 2) đều xác định họ đã thực tế chấm dứt quan hệ vợ chồng, (họ hàng và xã hội đã xác định như vậy) và họ không phải kiện ra Tòa xin ly hôn (đối với quan hệ hôn nhân cũ) thì quan hệ mới mà họ đang có vẫn được thừa nhận. Nay, dựa vào 2 quy dịnh phải được Tòa án cho ly hôn mới là ly hôn hợp pháp để nhằm trốn tránh nghĩa vụ (như ví dụ 1) hay tước bỏ quyền lợi chính đáng của người khác (như ví dụ 2) có thoả đáng không? Chúng tôi cho rằng, nên có quy định về việc ly hôn thực tế, không công nhận họ còn tồn tại quan hệ vợi chồng trong trường hợp quan hệ hôn nhân thực tế đã chấm dứt trước khi Luật hôn nhân và Gia đình có hiệu lực (trước 13/1/1960 ở miền Bắc và trước 25/3/1977 ở miền Nam).
Thực tế cũng đã từng có quy đình về ly hôn thực tế. Đó là quy định trong Thông tư 60: "Nếu người vợ ở trong miền Nam đã thực sự lấy chồng khác, nay lại đòi trở về với người chồng tập kết và người này đã có gia đình khác rồi, thì Tòa án giải thích chính sách khuyên họ rút đơn nếu họ không rút đơn thì sẽ bác đơn".
III. CÔNG NHẬN HÔN NHÂN HỢP PHÁP ĐỐI VỚI TRƯỜNG HỢP KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN.
1. Nghị quyết số 35/2000 NQ-QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình
Nghị quyết số 35/2000) là văn bản hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 mà nội dung chủ yếu là xử lý đối với hôn nhân không có đăng ký kết hôn. Các văn bản pháp luật hướng dẫn theo NQ 35/2000 là:
- Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ (Nghị định 77/2001)
- Nghị quyết số 02/2000 NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (NQ số 02/2000).
- Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3-1-2001 (Thông tư liên tịch số 01/2001).
- Công văn số 112/2001 -KHXX ngày 14/9/2001 của Toà án nhân dân tối cao (Công văn số 112/2001).
- Kết luận số 84a/UBTVQH 11 ngày 29/4/2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (kết luận số 84a).
Từ Nghị quyết số 35/2000, có một số thuật ngữ, khái niệm cần lưu ý là:
- "Quan hệ vợ chồng được xác lập" chỉ thời điểm bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng hay đó là ngày kết hôn thực tế.
- "Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng" là tình trạng mà trước đây gọi là "hôn nhân thực tế".
- "Áp dụng các quy định về ly hôn" có nghĩa công nhận quan hệ hôn nhân đó cũng là hôn nhân hợp pháp, giải quyết cho ly hôn như các trường hợp hôn nhân hợp pháp khác.
- "Không công nhận quan hệ vợ chồng" thay thế cho thuật ngữ "tiêu hôn" trước đây. Cũng cần lưu ý cùng với loại quan hệ hôn nhân bị tuyên bố "không công nhận quan hệ vợ chồng" thì còn có loại quan hệ hôn nhân bị tuyên bố "huỷ việc kết hôn trái pháp luật" (là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định - khoản 3 Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000).
Cũng là quan hệ chung sống với nhau như vợ chồng không đăng ký kết hôn, NQ 35/2000 chia các quan hệ trên thành 3 loại để có quy định giải quyết khác nhau căn cứ vào thời điểm xác lập quan hệ:
- Loại xác lập trước khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 có hiệu lực:
- Loại xác lập trong thời kì Luật Hôn nhân và Gia dình năm 1986 có hiệu lực;
- Loại xác lập sau khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 hết hiệu lực (thay thế bằng luật Hôn nhân và gia đình năm 2000).
Đối với quan hệ vợ chồng được xác lập trước khi Luật Hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực (trước ngày 03/01/1987) được quy định ở điểu a khoản 3. Loại quan hệ này không bắt buộc phải đăng ký kết hôn mà chỉ khuyến khích đăng ký kết hôn. Nếu họ đăng kí kết hôn thì việc tham gia các giao dịch có căn cứ pháp lý và thuận lợi hơn, Nhà nước tạo điều kiện để họ đăng kí kết hôn được dễ dàng. Nhưng dù họ có đăng kí kết hôn hay không đăng kí kết hôn thì quan hệ vợ chồng vẫn được công nhận là hợp pháp và thời kì hôn nhân hợp pháp bắt đầu kể từ ngày xác lập.
Trường hợp quan hệ vợ chồng xác lập kể từ ngày Luật Hôn nhân và Gia đình có hiệu lực (01/01/2001) trở đi được quy định ở điểm c khoản 3. Loại quan hệ này không được công nhận là vợ chồng hợp pháp; khi họ đi đăng kí kết hôn thì thời kì hôn nhân hợp pháp cũng chỉ được tính kể từ ngày đăng kí.
Trường hợp quan hệ vợ chồng xác lập trong thời gian có hiệu lực của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 (từ 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001) được quy định trong điểm b khoản 3. Đây là trường hợp có quy dịnh cụ thể phức tạp hơn hai loại nêu trên, cần phải lưu ý khi áp dụng.
Quy định của điểm b khoản 3 của NQ 35/2000 được hướng dẫn chi tiết tại "Thông tư liên tịch 01/2001 là:
- Ngày họ tổ chức lễ cưới.
- (hoặc) ngày họ về chung sống với nhau được gia đình (một hoặc hai bên) chấp nhận.
- (hoặc) ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến.
- (hoặc) ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với nhau, chăm sóc giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.
Xác định thời điểm bắt đầu hôn nhân như trên là tương ứng điều kiện để "Được coi nam và nữ chung sống với nhau là vợ chồng"- (điểm d khoản 1 TTLT 01/2001). Đáng lưu ý là các tiêu chí xác định ở đây mở rộng hơn nhiều so với các hướng dẫn trước đó về "hôn nhân thực tế". Không đòi hỏi họ phải "có con chung, có tài sản chung", "sống chung công khai được họ hàng, xã hội thừa nhận" như hướng dẫn trước đây. Điều kiện cụ thể nêu tại điểm b khoản 3 NQ 35/2000 chỉ đòi hỏi thuộc một trong những trường hợp sau đây:
- Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau:
- Việc họ về chung sống với nhau được gia đình (một hoặc cả hai bên) chấp nhận;
- Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến;
- Họ thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.
Đặc trưng quy định cho trường hợp tại điểm b khoản 3 NQ 35/2000 khác với trường hợp quan hệ vợ chồng xác lập trước Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 (trước 3/1/1987) và sau Luật Hôn nhân và gia đình 1986 (từ 01/01/2001) là quy định một thời hạn để họ đi đăng kí kết hôn. Thời hạn "đăng kí chậm" 2 năm này để giành quyền cho họ hợp pháp hoá quan hệ vợ chồng. Và như vậy, có thể có các khả năng như sau:
-Trường hợp 1: Họ xin ly hôn trong thời gian "đăng kí chậm". Trong thời hạn này, họ không đăng kí kết hôn mà yêu cầu xin ly hôn thì "Toà án áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 để giải quyết". Có nghĩa là hôn nhân đã có của họ được công nhận là hợp pháp từ thời điểm xác lập đến thời điểm cho ly hôn: các quyền và nghĩa vụ pháp lý xuất hiện trong thời kì hôn nhân này giống như các quan hệ hôn nhân hợp pháp khác.
Ví dụ 3: Ông A và và B chung sống với nhau như vợ chồng từ 01/01/1988 không có đăng kí kết hôn. Năm 1995, ông A mua được một ngôi nhà (không có công sức của bà B). Năm 1999, ông A bán nhà cho ông C (bà B không đồng ý bán nhà). Ngày 2/1/2001, ông A xin ly hôn bà B. Tòa án có cơ sở xác định cho ly hôn và xác định ngôi nhà mua năm 1995 là tài sản chung để phân chia cho ông A và bà B: hợp đồng mua bán nhà giữa ông A với ông C là vô hiệu.
- Trường hợp 2: Họ đăng kí kết hôn trong thời gian "đăng kí chậm". Quan hệ hôn nhân của họ được công nhận hợp pháp kể từ thời điểm xác lập. Trong ví dụ 3 nêu trên, nếu ông A và bà B lại đi đăng kí kết hôn vào ngày này, sau đó mới xin ly hôn và đến ngày 1/1/2001 mới được xét cho ly hôn thì thời kỳ hôn nhân hợp pháp của ông A và B là từ 1/1/1988 đến 1/1/2004 chứ không phải chỉ từ 2/1/2001 (ngày đăng kí kết hôn) đến ngày cho ly hôn. Và như vậy, ngôi nhà tạo lập năm 1995 là tài sản chung của vợ chồng.
- Trường hợp 3: Đến 15/1/2003, ông A và bà B mới đăng kí kết hôn. Trường hợp này, quan hệ hôn nhân hợp pháp của ông A và bà B chỉ được tính kể từ thời điểm kết hôn (15/1/2003). Và như vậy, ngôi nhà tạo lập năm 1995 là tài sản có trước hôn nhân, nó đương nhiên là tài sản riêng của ông A. Bởi vì, qua ngày 1/1/2003 họ không đăng kí kết hôn là họ đã tự xoá khả năng công nhận thời kỳ hôn nhân hợp pháp của toàn bộ quá trình chung sống trước đó.
-Trường hợp 4: Sau ngày 1/1/2003, ông A và bà B không đăng kí kết hôn và một trong hai người xin ly hôn thì phải xử không công nhận họ là vợ chồng. Thậm chí, họ không được Toà án xử cho ly hôn mà tự đi kết hôn với người khác thì hôn nhân mới không bị coi là vi phạm chế độ một vợ một chồng (vì sau ngày 1/1/2003 quan hệ chung sống trước đó giữa ông A và bà B đương nhiên bị coi là không hợp pháp).
2. Một số lưu ý liên quan đến Nghị quyết 35/2000
a. Kết luận số 84a UBTVQH 11 ngày 29/4/2003
Do việc tổ chức đăng kí kết hôn cho các đối tượng thuộc điểm b khoản 3 NQ 35/2000 ở nhiều địa phương còn chậm trễ nên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định đối với các trường hợp đã đến đăng kí làm thủ tục kết hôn từ ngày 1/1/2003 trở về trước mà vẫn chưa được hoàn thiện thủ tục kết hôn thì "Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải tiếp tục hoàn tất thủ tục đăng kí kết hôn công nhận họ là vợ chồng kể từ khi họ chung sống với nhau như vợ chồng trên thực tế".
Như vậy, có một số trường hợp đăng kí kết hôn sau ngày 1/1/2003 (đã quá thời kì "đăng kí chậm") sẽ vẫn được công nhận thời kì hôn nhân hợp pháp từ ngày xác lập chứ không phải chỉ từ ngày đăng kí.
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, thực tế phải đã được đăng kí kết hôn đúng thủ tục theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì những trường hợp nêu trên mới được hưởng "ưu đãi' theo Kết luận 84a; còn mặc dù họ đã xin đăng kí kết hôn mà sau đó họ từ bỏ ý định kết hôn (hoặc một bên từ bỏ) hoặc cơ quan có thẩm quyền đăng kí kết hôn xác định có sự vi phạm điều kiện kết hôn khác nên không cấp đăng kí kết hôn thì họ vẫn không được công nhận là vợ chồng.
b. Trường hợp còn có vi phạm điều kiện kết hôn khác
Có trường hợp chung sống như vợ chồng không những không đăng kí kết hôn mà còn vi phạm các điều kiện kết hôn khác.
Ví dụ 4: Anh A chung sống như vợ chồng với chị B từ 1/1/1995. Khi ấy anh A mới 18 tuổi. Ngày 15/1/2001, anh A và chị B đăng kí kết hôn. Vậy thì thời kì hôn nhân hợp pháp của họ được tính từ ngày xác lập (1/1/1995) hay từ khi anh A đủ tuổi kết hôn (2/1/1996). NQ35/2000 quy định hợp pháp hoá cho những quan hệ hôn nhân chưa đăng kí nếu như không vi phạm các điều kiện kết hôn khác nên thời kì hôn nhân hợp pháp phải được tính từ khi họ không còn vi phạm nào khác ngoài vi phạm không đăng kí kết hôn. Trong trường hợp này, ngày được tính bắt đầu thời kỳ hôn nhân hợp pháp là từ 2/1/1996.
Ví dụ 5: Anh X và chị Y chung sống như vợ chồng từ năm 1998. Khi ấy, anh X còn có vợ là chị T. Đến 15/1/2001, anh X mới được Toà án cho ly hôn chị T và bản án có hiệu lực pháp luật. Anh X và chi Y đi đăng kí kết hôn ngày 15/2/2001. Vậy thời kì hôn nhân hợp pháp của anh X và chị Y có được tính từ ngày xác lập (1998) hay không?
Thời điểm bắt đầu chung sống của anh X và chị Y nằm trong thời kỳ từ 3/1/1987 đến 1/1/2001 như các trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 NQ35/2000. Thời điểm đăng kí kết hôn của anh X và chị Y cũng là trong thời gian "đăng kí chậm" từ 1/1/2001 đến 1/1/2003. Tuy nhiên, ở thời điểm bắt đầu chung sống họ còn có vi phạm vào chế độ một vợ một chồng. Thời điểm họ khắc phục được vi phạm này (15/1/2001) là nằm ngoài thời gian NQ35/2000 quy định từ (3/1/1987 đến 1/1/2001). Vì vậy, quan hệ hôn nhân anh X chị Y không thuộc loại quy định ở điểm b khoản 3 NQ35/2000. Anh X và chị Y chỉ được công nhận có quan hệ hôn nhân hợp pháp kể từ ngày đăng kí kết hôn là ngày 15/02/2001.
3. Hiệu lực "hồi tố" của NQ 35/2000
NQ 35/2000 được thông qua ngày 9/6/2000, nhưng là Nghị quyết hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nên cũng chỉ có hiệu lực thi hành kể từ khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có hiệu lực (từ ngày 1/1/2001). Trong NQ 35/2000 có một số nội dung có tính chất "hồi tố" nhưng không phải tất cả các giao dịch liên quan đến hôn nhân và gia đình trước 1/1/2001 đều được áp dụng NQ 35/2000. Những quan hệ hôn nhân còn tồn tại đến thời điểm NQ 35/2000 cho hiệu lực mới là những quan hệ hôn nhân thuộc phạm vi quy định tại khoản 3 NQ 35/2000.
Ví dụ 6: Ông A và bà B chung sống từ 1988. Đến 1995, ông A chết. Để xác định có công nhận ông A và bà B có quan hệ hôn nhân hợp pháp (hôn nhân thực tế) hay không, phải căn cứ vào các quy định của pháp luật ở thời điểm mở thừa kế của ông A (1995). Không thể áp dụng các tiêu chí xác định hôn nhân quy định ở NQ 35/2000 và các văn bản hướng dẫn áp dụng Nghị quyết này để xác định tính chất quan hệ hôn nhân giữa ông A và bà B.
Trong trường hợp ông A chết vào thời điểm sau khi NQ 35/2000 có hiệu lực (ví dụ: 15/1/2001) thì phải áp dụng NQ 35/2000 và các văn bản hướng dẫn áp dụng nghị quyết này. Nếu như việc xác lập quan hệ vợ chồng của ông A và bà B thuộc một trong các trường hợp quy định ở Thông tư liên tịch 01/2001 thì phải công nhận quan hệ hôn nhân giữa ông A và bà B là hợp pháp và thời kì hôn nhân hợp pháp là từ khi xác lập (1988) đến khi ông A chết (15/01/2001). Mặc dù họ chưa đăng kí kết hôn và cũng không thể thực hiện việc đăng kí kết hôn trong thời hạn quy định được nữa (vì một bên đã chết) nhưng NQ 35/2000 đã quy định "trong thời hạn này (1/1/2001 đến 1/1/2003) mà họ không đăng kí kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết" cũng có nghĩa là xác định họ có quan hệ hôn nhân hợp pháp ở thời điểm mở thừa kế của ông A (15/1/2001). Vấn đề này cũng đã được giải thích tại khoản 1 của Kết luận 84a.
Nguồn:  http://nguyenvantienlds.blogspot.com/2010/08/bai-viet-ve-hon-nhan.html

Đăng ký hôn nhân thực tế: tưởng dễ hóa… khó

Đăng ký hôn nhân thực tế: tưởng dễ hóa… khó

Dang ky hon nhan thuc te tuong de hoa kho
Đăng ký kết hôn - quyền lợi của công dân được pháp luật bảo vệ
Luật sửa đổi bổ sung Luật Hôn nhân gia đình (HNGĐ) năm 2000 đã không thừa nhận hôn nhân thực tế (HNTT), các cặp nam nữ chung sống với nhau phải đi đăng ký kết hôn (ĐKKH) thì mới được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Chính vì vậy, tại Nghị định 77/2001/CP của Chính phủ đã có hướng dẫn: “Trong giai đoạn hai năm kể từ khi Luật HNGĐ mới có hiệu lực thi hành, các cặp HNTT phải thực hiện nghĩa vụ ĐKKH”. Tháng 7-2004 đã sắp trôi qua nhưng việc đăng ký HNTT khó có thể đạt được.
Tiến sĩ TRẦN THẤT – Vụ trưởng Vụ Hành chính – Tư pháp, Bộ Tư pháp đã chia sẻ những khúc mắc này.
* Thưa ông, Chỉ thị 02/2003 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã đặt ra mục tiêu phải hoàn thành việc ĐKKH cho các cặp HNTT trên cả nước vào 31-7-2004. Đến thời điểm này, các địa phương đã hoàn thành nhiệm vụ đến đâu?
- Theo rà soát của các địa phương, trên cả nước còn khoảng 300.000 cặp HNTT chung sống với nhau thuộc diện bắt buộc phải đi ĐKKH. Dù các địa phương đã thành lập Ban chỉ đạo liên ngành (gồm UBND, công an, tư pháp, giáo dục, UBGĐ&TE, Hội Phụ nữ) đưa các đội trợ giúp pháp lý cũng như các đoàn sinh viên tình nguyện của ĐH Luật xuống tận thôn, xã, thậm chí đến từng gia đình để làm công tác ĐKKH, nhưng theo báo cáo của các địa phương thì đến thời điểm này mới chỉ hoàn thành đăng ký cho khoảng 70% số đối tượng đã rà soát.
Các tỉnh miền Nam và Nam Trung bộ được đánh giá là làm tốt hơn các tỉnh đồng bằng và miền núi phía Bắc. TP.HCM, Bình Định, Ninh Thuận, Tây Ninh, Long An đều đạt trên 90%; Thừa Thiên – Huế, Nghệ An đạt dưới 60%; Quảng Trị, Bình Thuận, Hà Tĩnh chưa đạt 30%; cá biệt Sơn La chỉ đạt 5%. Riêng Hà Nội thì chưa… gửi báo cáo.
* Như vậy, việc chậm tiến độ như đã đề ra la do đâu?
- Nguyên nhân đầu tiên là từ chính những cặp vợ chồng. Họ quan niệm, đã chung sống với nhau nhiều năm rồi thì nay không cần thiết phải có giấy ĐKKH. Những cặp vợ chồng đã có cháu để bế bồng thì càng ngại đưa nhau ra xã để đăng ký.
Thứ hai, nhận thức của người dân (đặc biệt ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa) về quan hệ hôn nhân chưa cao. Họ chỉ biết khi về sống với nhau là phải ra đăng ký chứ chưa hiểu thủ tục đó là một quyền lợi của công dân được pháp luật bảo vệ.
Thứ ba, ở đâu thiếu sự quan tâm của chính quyền thì việc triển khai nhiệm vụ chậm.
* Đối với 30% cặp HNTT còn lại, dù đã hết hạn theo quy định nhưng chính quyền địa phương có còn tiếp tục cấp ĐKKH để tạo điều kiện cho họ thực hiện những quyền lợi hợp pháp của mình?
- Việc các cặp vợ chồng có giấy ĐKKH là rất quan trọng. Nếu không đăng ký, con chung của họ sẽ không được coi là con trong giá thú và muốn làm giấy khai sinh cho đứa trẻ đó, họ phải làm thêm thủ tục xin nhận con ngoài giá thú.
Về mặt tài sản, những cặp vợ chồng không đăng ký sẽ không có được các quyền và nghĩa vụ tài sản với nhau, vì tài sản họ cùng tạo dựng suốt thời gian chung sống sẽ không được coi là tài sản chung. Khi tham gia các giao dịch kinh tế, xã hội, dân sự nếu một bên ốm đau, bệnh tật mà vắng mặt thì bên kia cũng không có quyền thay mặt với tư cách là người đại diện hợp pháp.
Chính vì những quyền lợi sát sườn như vậy nên Bộ trưởng Bộ Tư pháp lại vừa ra chỉ thị để đôn đốc các địa phương tiếp tục cấp giấy ĐKKH cho các cặp HNTT. Thủ tục rất đơn giản, khi đi đăng ký, cặp vợ chồng chỉ cần làm tờ khai và xuất trình giấy CMND thì sẽ được UBND nơi người vợ, hoặc chồng đăng ký hộ khẩu cấp giấy ĐKKH.
* Trước đây, khi sửa đổi Luật HNGĐ, đã có nhiều ý kiến cho rằng vẫn nên tồn tại HNTT. Sau một thời gian thực thi luật mới, ông có nhận xét gì về quy định xóa bỏ HNTT?
- Với xu hướng xây dựng nhà nước pháp quyền, việc xóa bỏ HNTT là một việc làm tất yếu, phù hợp với các khu vực kinh tế – xã hội phát triển. Tuy nhiên, khi quy định công nhận HNTT tồn tại ở xã hội VN đã mấy chục năm thì việc xóa bỏ nó chỉ trong vòng một, hai năm là khó thực hiện.
Ở những vùng nông thôn, vùng dân tộc, người dân chỉ cần làm lễ khi về ở với nhau còn rất rõ. Muốn thay đổi tập quán, truyền thống thì chính quyền các địa phương cần tiếp tục làm tốt việc tuyên truyền, vận động để cho từng người dân có sự chuyển biến tâm lý trước đã…
Theo Phụ Nữ

Chung sống trước ngày 3-1-1987 là hôn nhân thực tế?

Chung sống trước ngày 3-1-1987 là hôn nhân thực tế?
Theo Tòa Dân sự TAND Tối cao, hiện nhiều thẩm phán đang có cách hiểu khác nhau khi vận dụng Điều 3 Nghị quyết 35 năm 2000 của Quốc hội.

Có người nói nam nữ cứ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 3-1-1987 là hôn nhân thực tế, có người lại bảo phải đủ điều kiện kết hôn mới được công nhận…
Một ví dụ tiêu biểu đã được đưa ra: Ông A chung sống với bà B nhiều năm, đã có con chung và tài sản chung. Đến năm 1970, ông A lấy thêm vợ lẽ là bà C (có tổ chức cưới hỏi), sau đó sống với bà C. Năm 2002, ông A xin ly hôn bà C. Vậy quan hệ giữa ông và bà C có phải là hôn nhân thực tế hay không?
Chỉ cần chung sống như vợ chồng?
Những thẩm phán theo cách hiểu thứ nhất cho rằng trong trường hợp này, quan hệ giữa ông A và bà C vẫn được công nhận là hôn nhân thực tế dù vừa vi phạm về hình thức (không đăng ký kết hôn) vừa vi phạm về nội dung (ông A đã có vợ hợp pháp là bà B).
Các thẩm phán lý giải: Theo Điều 3 Nghị quyết 35, hai bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 3-1-1987 (ngày Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 có hiệu lực) nhưng không đăng ký kết hôn thì được tòa công nhận là vợ chồng khi ly hôn. Như vậy, điều khoản trên không hề quy định nam nữ sống với nhau như vợ chồng phải có đủ điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình.
Vì luật không quy định nên các thẩm phán cho rằng chỉ cần điều kiện duy nhất là hai bên chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 3-1-1987 thì công nhận họ là vợ chồng mà không cần điều kiện gì khác. Luật pháp không bắt buộc mà chỉ khuyến khích họ đi đăng ký kết hôn nên giả sử họ không đăng ký thì thực chất họ vẫn có mối quan hệ vợ chồng.


Một phiên tòa xử ly hôn tại TAND quận 10, TP.HCM. Ảnh minh họa: HTD
Hay phải đủ các điều kiện kết hôn?
Ngược lại, nhiều thẩm phán khác không đồng tình với cách hiểu trên. Theo họ, ông A và bà C sẽ không được công nhận là vợ chồng dù hai bên có tổ chức cưới hỏi đàng hoàng, có sống chung từ năm 1970 bởi ông A đang có vợ là bà B.
Theo các thẩm phán, Điều 3 Nghị quyết 35 chỉ châm chước cho các trường hợp sống chung với nhau như vợ chồng trước ngày 3-1-1987 mà vi phạm điều kiện về hình thức là chưa đăng ký kết hôn; còn về nội dung phải thì tuân thủ đầy đủ điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1960 (Trừ những trường hợp cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc trước giải phóng lấy tiếp vợ hai, đã có thông tư hướng dẫn riêng).
Tòa Dân sự TAND Tối cao đồng ý với quan điểm này vì Điều 35 Nghị quyết 35 không yêu cầu có đủ điều kiện kết hôn cũng không có nghĩa là không cần tuân thủ điều kiện khi kết hôn. Theo Tòa Dân sự, thẩm phán hiểu khái niệm không quy định điều kiện kết hôn đồng nghĩa với khái niệm không cần đủ điều kiện kết hôn là máy móc và không chính xác. Đánh đồng hai khái niệm trên sẽ dẫn đến chuyện áp dụng pháp luật thiếu thống nhất.
Mặt khác, Tòa Dân sự cho rằng nếu áp dụng theo quan điểm thứ nhất thì rất khó xử lý những trường hợp đặc biệt như những người cùng dòng máu về trực hệ như cha, con, anh em; cha mẹ nuôi với con nuôi. Tương tự là giữa những người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng với con dâu; mẹ vợ với con rể; cha dượng với con riêng của vợ; mẹ kế với con riêng của chồng; những người có họ trong phạm vi ba đời... Bởi thực tế có trường hợp thuộc một trong các trường hợp trên sống với nhau như vợ chồng, có tổ chức lễ cưới, thực sự chăm sóc, yêu thương, giúp đỡ nhau nhưng làm sao có thể công nhận họ là vợ chồng được!
Theo một lãnh đạo Tòa Dân sự, luật hôn nhân và gia đình các năm 1960, 1986 và 2000 đều quy định hôn nhân muốn được coi là hợp pháp trước hết phải thỏa mãn các điều kiện kết hôn, không vi phạm điều cấm của pháp luật. Do đó, Điều 3 Nghị quyết 35 của Quốc hội cũng không thể thoát ly ngoài các quy định đó.

Không chỉ dựa vào câu chữ
Theo Tòa Dân sự TAND Tối cao, khi tìm hiểu, giải thích pháp luật, để đảm bảo tính chính xác và không mâu thuẫn với quy định khác thì không chỉ căn cứ vào câu chữ cụ thể mà còn phải tổng hợp các quy định về các vấn đề đó. Có như vậy mới đảm bảo tính ổn định và thống nhất trong việc giải thích và áp dụng pháp luật, không rơi vào chuyện áp dụng máy móc, trái thực tế, trái đạo đức.
Không thể vi phạm điều kiện về nội dung
Tôi cho rằng trong trường hợp hai người sống với nhau nhưng vi phạm điều kiện kết hôn về nội dung như đang có vợ (chồng) hoặc vi phạm đạo đức thì không nên công nhận hôn nhân thực tế cho họ. Nếu có tranh chấp thì tòa chỉ nên giải quyết về vấn đề tài sản hoặc con chung cho họ.
Nếu chấp nhận một cách dễ dãi theo kiểu luật không quy định điều kiện theo quan điểm thứ nhất thì sẽ có người được công nhận nhiều hôn nhân một lúc, gây nhiều khó khăn, rắc rối khi giải quyết hậu quả phát sinh.
Thẩm phán HOÀNG VĂN HẢI, Phó Chánh án TAND tỉnh Tây Ninh
Phải hiểu đúng tinh thần nghị quyết
Theo tôi, phải hiểu theo cách thứ hai mới đúng tinh thần Nghị quyết 35 bởi ngoài các điều kiện về mốc thời gian nêu trên thì phải có đủ điều kiện kết hôn mới có thể coi là hôn nhân thực tế. Điều kiện kết hôn ở đây có thể hiểu là yếu tố đương nhiên cho một cuộc hôn nhân có ý nghĩa.
Tôi nghĩ chẳng ai máy móc mà công nhận vợ chồng cho những người thiếu năng lực hành vi hoặc có quan hệ họ hàng gần gũi, có dòng máu trực hệ với nhau cả.
Luật sư NGUYỄN MINH TÂM, Đoàn Luật sư TP.HCM
Nguồn:http://phapluattp.vn/20100808111245718p0c1063/chung-song-truoc-ngay-311987-la-hon-nhan-thuc-te.htm   
TÙNG CHI

Thứ Sáu, 1 tháng 7, 2011

Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
————
Số: 26-NQ/TW
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Hà Nội, ngày 5 tháng 8 năm 2008

NGHỊ QUYẾT
HỘI NGHỊ LẦN THỨ BẢY
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHOÁ X
Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Sau hơn 20 năm thực hiện đường đối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả to lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Các hình thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất hàng hoá. Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.
Những hạn chế, yếu kém trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chính: nhận thức về vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn bất cập so với thực tiễn; chưa hình thành một cách có hệ thống các quan điểm lý luận về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực này thiếu đồng bộ, thiếu tính đột phá; một số chủ trương, chính sách không hợp lý, thiếu tính khả thi nhưng chậm được điều chỉnh, bổ sung kịp thời; đầu tư từ ngân sách nhà nước và các thành phần kinh tế vào nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; tổ chức chỉ đạo thực hiện và công tác quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, yếu kém; vai trò của các cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng trong việc triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở nhiều nơi còn hạn chế.
I. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU
1. Quan điểm
- Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.
- Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt.
- Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai, rừng và biển; khai thác tốt các điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế cho phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn; phát huy cao nội lực; đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân.
- Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; trước hết, phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội nông thôn ổn định, hoà thuận, dân chủ, có đời sống văn hoá phong phú, đàm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân.
2. Mục tiêu
Mục tiêu tổng quát
Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới. Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu đến năm 2020
- Tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thuỷ sản đạt 3,5 - 4%/năm; sử dựng đất nông nghiệp tiết kiệm và hiệu quả; duy trì diện tích đất lúa đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài. Phát triển nông nghiệp kết hợp với phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải quyết cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn gấp trên 2,5 lần so với hiện nay.
- Lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỉ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%.
- Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, trước hết là hệ thống thuỷ lợi đảm bảo tưới tiêu chủ động cho toàn bộ diện tích đất lúa 2 vụ, mở rộng diện tích tưới cho rau màu, cây công nghiệp, cấp thoát nước chủ động cho diện tích nuôi trồng thủy sản, làm muối; đảm bảo giao thông thông suốt 4 mùa tới hầu hết các xã và cơ bản có đường ô tô tới các thôn, bản; xây dựng cảng cá, khu neo đậu tàu thuyền và hạ tầng nghề cá; cấp điện sinh hoạt cho hầu hết dân cư, các cơ sở công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; đảm bảo cơ bản điều kiện học tập chữa bệnh, sinh hoạt văn hoá, thể dục thể thao ở hầu hết các vùng nông thôn tiến gần tới mức các đô thị trung bình.
- Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả, bền vững công cuộc xoá đói, giảm nghèo; nâng cao trình độ giác ngộ và vị thế chính trị của giai cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, hoàn chỉnh hệ thống đê sông, đê biển và rừng phòng hộ ven biển, hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, thuỷ lợi, cụm dân cư đáp ứng yêu cầu phòng chống bão, lũ, ngăn mặn và chống nước biển dâng; tạo điều kiện sống an toàn cho nhân dân đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung và các vùng thường xuyên bị bão, lũ, thiên tai; chủ động triển khai một bước các biện pháp thích ứng và đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu. Ngăn chặn, xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường, từng bước nâng cao chất lượng môi trường nông thôn.
Mục tiêu đến năm 2010
Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân trên cơ sở đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, nhất là ở các vùng còn nhiều khó khăn; tăng cường nghiên cứu và chuyển giao khoa học - công nghệ tiên tiến, tạo bước đột phá trong đào tạo nhân lực; tăng cường công tác xoá đói, giảm nghèo, đặc biệt ở các huyện còn trên 50% hộ nghèo, tập trung giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn. Triển khai một bước chương trình xây dựng nông thôn mới. Tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thuỷ sản 3 - 3,5%/năm. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn không thấp hơn mức bình quân của cả nước. Lao động nông nghiệp còn dưới 50% lao động xã hội. Giảm tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới, cơ bản không còn hộ dân ở nhà tạm, tăng tỉ lệ che phủ rừng và tỉ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch.
II. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP
1. Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đồng thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn
Đẩy nhanh tiến độ quy hoạch sản xuất nông nghiệp trên cơ sở nhu cầu thị trường và lợi thế từng vùng, sử dụng đất nông nghiệp tiết kiệm, có hiệu quả, duy trì diện tích đất lúa đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài. Cơ cấu lại ngành nông nghiệp, gắn sản xuất với chế biến và thị trường. Phát triển sản xuất với quy mô hợp lý các loại nông sản hàng hoá xuất khẩu có lợi thế nông sản thay thế nhập khẩu. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại, công nghệ sinh học, thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, thông tin hoá, thay thế lao động thủ công, thay đổi tập quán canh tác lạc hậu để sử dụng có hiệu quả đất đai, tài nguyên, lao động, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản.
Phát triển ngành trồng trọt, hình thành vùng sản xuất hàng hoá tập trung, thực hiện đầu tư thâm canh, áp dụng các giống và quy trình sản xuất mới có năng suất, chất lượng cao; hoàn thiện hệ thống tưới tiêu; đẩy nhanh cơ giới hoá đồng bộ các khâu sản xuất; hiện đại hoá công nghiệp bảo quản, chế biến, nâng cao chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm và giá trị gia tăng của nông sản hàng hóa. Bố trí lại cơ cấu cây trồng, mùa vụ và giống để giảm thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh phù hợp với điều kiện của từng vùng. Tiếp tục đẩy mạnh thâm canh sản xuất lúa, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng. Đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài và ưu tiên hàng đầu trong phát triển nông nghiệp. Có chính sách bảo đảm lợi ích cho người trồng lúa, địa phương và vùng trồng lúa. Xây dựng các vùng sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả, rau, hoa hàng hoá tập trung, trước hết là các vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Phát triển nhanh ngành chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, bán công nghiệp, an toàn dịch bệnh, phù hợp với lợi thế của từng vùng; chú trọng phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ ở trung du, miền núi và Tây Nguyên; tập trung cải tạo và nâng cao chất lượng giống, áp dụng quy trình chăn nuôi tiên tiến để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả; tăng cường công tác thú y, phòng chống dịch bệnh; phát triển sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp; tổ chức lại và hiện đại hoá cơ sở giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm.
Phát triển lâm nghiệp toàn diện từ quản lý, bảo vệ, trồng, cải tạo, làm giàu rừng đến khai thác, chế biến lâm sản, bảo vệ môi trường cho du lịch sinh thái. Có cơ chế, chính sách phù hợp, tạo điều kiện, khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia bảo vệ, phát triển rừng. Cho phép khai thác lợi ích kinh tế từ rừng sản xuất là rừng tự nhiên theo nguyên tắc bền vững, lấy nguồn thu từ rừng để bảo vệ, phát triển rừng và làm giàu từ rừng. Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức, cá nhân trồng rừng thâm canh, hiện đại hoá công nghệ khai thác, chế biến nhằm nâng cao giá trị lâm sản, chú trọng phát triển lâm sản ngoài gỗ.
Triển khai có kết quả chương trình khai thác hải sản trong chiến lược phát triển kinh tế biển, gắn nhiệm vụ phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc phòng. Cơ cấu lại lực lượng đánh bắt gần bờ, đồng thời có chính sách hỗ trợ ngư dân chuyển đổi nghề tạo việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống của ngư dân ven biển. Phát triển nhanh lực lượng khai thác xa bờ theo hướng đầu tư trang bị phương tiện và công nghệ hiện đại, phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần nghề cá, khu neo đậu tàu thuyền theo quy hoạch, hệ thống thông tin liên lạc, tìm kiếm cứu nạn. Phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản đa dạng, theo quy hoạch, phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường; xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng vùng nuôi, trồng, trước hết là thuỷ lợi; áp dụng rộng rãi các quy trình công nghệ sinh sản nhân tạo; xây dựng hệ thống thú y thuỷ sản; kiểm soát chặt chẽ chất lượng giống, thức ăn, môi trường nuôi; hiện đại hoá các cơ sở chế biến, đảm bảo các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ ở các vùng nông thôn theo quy hoạch. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp chế biến tinh, chế biến sâu gắn với vùng nguyên liệu và thị trường, đẩy mạnh sản xuất tiểu thủ công nghiệp, triển khai chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề. Phát triển nhanh và nâng cao chất lượng các loại dịch vụ phục vụ sản xuất, đời sống của dân cư nông thôn.
2. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát triển các đô thị
Tiếp tục đầu tư các công trình thủy lợi theo hướng đa mục tiêu, nâng cao năng lực tưới tiêu chủ động cho các loại cây trồng, trước hết cho lúa, nuôi trồng thuỷ sản và các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao, cấp nước sinh hoạt cho dân cư và công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn. Xây dựng hồ chứa nước ở vùng thường xuyên bị khô hạn, phát triển thủy lợi nhỏ kết hợp thủy điện ở miền núi. Củng cố, xây dựng hệ thống đê sông, đê biển, hệ thống ngăn lũ, thoát lũ. Hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý thuỷ lợi có hiệu quả, nâng hiệu suất sử dụng các công trình thuỷ lợi lên trên 80%.
Phát triển giao thông nông thôn bền vững gắn với mạng lưới giao thông quốc gia, bảo đảm thông suốt bốn mùa tới các xã và cơ bản có đường ô tô đến thôn, bản. Ưu tiên phát triển giao thông ở các vùng khó khăn để có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội nhanh hơn. Quy hoạch, đầu tư xây dựng hệ thống đường đến các vùng trung du, miền núi và ven biển để phát triển công nghiệp và đô thị. Từng bước nâng cao chất lượng đường nông thôn; có cơ chế, chính sách đảm bảo duy tu bảo dưỡng thường xuyên. Phát triển giao thông thuỷ, xây dựng các cảng sông, nạo vét luồng lạch và các phương tiện vận tải sông, biển an toàn.
Cải tạo và phát triển đồng bộ hệ thống lưới điện, bảo đảm đủ điện phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; nâng cao chất lượng điện phục vụ sinh hoạt của dân cư nông thôn. Phát triển hệ thống bưu chính viễn thông, nâng cao khả năng tiếp cận thông tin cho mọi vùng nông thôn, đặc biệt là miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo. Xây dựng hệ thống chợ nông sản phù hợp với từng vùng.
Tập trung đầu tư cho các viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm, cơ sở chuyển giao khoa học - công nghệ nông nghiệp đạt trình độ tiên tiến trong khu vực; phát triển nhanh các trung tâm, trạm giống, cơ sở khuyến nông ở các huyện, xã. Nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở, y tế dự phòng, các bệnh viện đa khoa tuyến huyện, các trung tâm y tế vùng, các cơ sở y tế chuyên sâu; hoàn thành chương trình kiên cố hóa trường học; xây dựng các trung tâm, nhà văn hoá - thể thao tại thôn, xã.
Quy hoạch bố trí lại dân cư nông thôn gắn với việc quy hoạch xây dựng công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị ở các vùng. Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới với các tiêu chí cụ thể, phù hợp với đặc điểm từng vùng, chú ý các xã còn nhiều khó khăn ở miền núi, biên giới, bãi ngang, hải đảo. Phát triển mạng lưới thị trấn, thị tứ theo quy hoạch; tiếp tục thực hiện phương châm “Nhà nước và nông dân cùng làm”, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Thực hiện tốt các chương trình hỗ trợ nhà ở cho người nghèo và các đối tượng chính sách, xoá nhà tạm ở nông thôn, thực hiện chương trình nhả ở cho đồng bào vùng bão, lũ; bố trí lại dân cư ra khỏi vùng bão, lũ, vùng sạt lở núi, ven sông, ven biển.
Nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, tìm kiếm cứu nạn; chủ động triển khai một bước các công trình giảm thiểu tác hại của biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Tăng cường các biện pháp bảo vệ môi trường nông thôn, ngăn chặn và khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường đang ngày càng gia tăng.
3. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, nhất là vùng khó khăn
Giải quyết việc làm cho nông dân là nhiệm vụ ưu tiên xuyên suốt trong mọi chương trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; bảo đảm hài hoà giữa các vùng, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị. Có kế hoạch cụ thể về đào tạo nghề và chính sách đảm bảo việc làm cho nông dân, nhất là ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động từ nông thôn; triển khai kế hoạch hợp tác sản xuất nông nghiệp với một số quốc gia có nhu cầu.
Tập trung nguồn lực và tăng cường chỉ đạo thực hiện đồng bộ chiến lược về tăng trưởng và xoá đói, giảm nghèo. Đặc biệt quan tâm tới miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long và các huyện, xã có tỉ lệ hộ nghèo trên 50%, các hải đảo, vùng bãi ngang. Nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số.
Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ban đầu và khám chữa bệnh; thực hiện tốt chính sách bảo hiểm y tế, dân số, giảm tỉ lệ sinh ở nông thôn. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, xây dựng các hương ước, phát huy truyền thống tốt đẹp, tương thân tương ái, tình làng nghĩa xóm, bài trừ các hủ tục, thực hiện nếp sống mới ở nông thôn.
Xây dựng hệ thống an sinh xã hội ở nông thôn. Tiếp tục thực hiện các chính sách bảo hiểm y tế đối với người nghèo, chăm sóc trẻ em dưới 6 tuổi, chế độ cứu trợ đối với hộ thiếu đói, vùng khó khăn, cấp học bổng cho học sinh nghèo, cận nghèo. Thí điểm bảo hiểm nông nghiệp, bảo đảm mức sống tối thiểu cho cư dân nông thôn. Rà soát, giảm thiểu các khoản đóng góp có tính chất bắt buộc đối với nông dân. Tiếp tục chỉ đạo hoàn thiện và thực hiện đầy đủ quy chế dân chủ cơ sở.
Đấu tranh, ngăn chặn các hành vi tiêu cực, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội, giải quyết kịp thời các vụ việc khiếu kiện của nhân dân, không để gây thành những điểm nóng ở nông thôn. Tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Thực hiện bình đẳng giới, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, năng lực và vị thế của phụ nữ ở nông thôn.
4. Đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả ở nông thôn
Tiếp tục tổng kết, đổi mới và xây dựng các mô hình kinh tế, hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn. Có chính sách khuyến khích phát triển các mối liên kết giữa hộ nông dân với các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức khoa học, hiệp hội ngành hàng và thị trường tiêu thụ sản phẩm để hỗ trợ kinh tế hộ phát triển theo hướng gia trại, trang trại có quy mô phù hợp, sản xuất hàng hoá lớn.
Tiếp tục đổi mới, phát triển hợp tác xã, tổ hợp tác phù hợp với nguyên tắc tổ chức của hợp tác xã và cơ chế thị trường; hỗ trợ kinh tế tập thể về đào tạo cán bộ quản lý, lao động; tiếp cận các nguồn vốn, trợ giúp kỹ thuật và chuyển giao công nghệ, phát triển thị trường, xúc tiến thương mại và các dự án phát triển nông thôn; hợp tác xã phải làm tốt các dịch vụ đầu vào, chế biến, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.
Hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp. Đổi mới căn bản việc tổ chức quản lý nông, lâm trường quốc doanh. Thực hiện tốt việc giao khoán đất, vườn cây cho người lao động, nông, lâm trường quốc doanh chuyển sang làm tốt các dịch vụ cho người nhận khoán và nông dân trong vùng, nhất là hướng dẫn kỹ thuật, dịch vụ vật tư, tiêu thụ và chế biến sản phầm. Rà soát hiện trạng sử dụng quỹ đất rừng, thu hồi đất rừng sử dụng sai mục đích, kém hiệu quả, vượt khả năng quản lý của đơn vị, giao lại cho chính quyền địa phương để cho các tổ chức, cá nhân thuê sử dụng có hiệu quả.
Tạo môi trường thuận lợi để hình thành và phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp nông thôn, nhất là các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, sử dụng nguyên liệu và thu hút nhiều lao động nông nghiệp tại chỗ, doanh nghiệp dịch vụ vật tư, tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản cho nông dân. Phát triển mạnh doanh nghiệp công nghiệp chế tạo máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu... phục vụ nông nghiệp.
5. Phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hoá nông nghiệp, công nghiệp hoá nông thôn
Tăng đầu tư ngân sách cho nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ để nông nghiệp sớm đạt trình độ tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực; ưu tiên đầu tư ứng dụng công nghệ sinh học để chọn, tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi và quy trình nuôi trồng, bảo quản, chế biến, tạo đột phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Xây dựng các chính sách đãi ngộ thỏa đáng để khai thác, phát huy tốt các nguồn lực khoa học - công nghệ, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ; thu hút thanh niên, trí thức trẻ về nông thôn, nhất là các ngành nông nghiệp, y tế, giáo dục, văn hoá. Tăng cường năng lực của hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, thú y, bảo vệ thực vật và các dịch vụ khác ở nông thôn; xây dựng các vùng sản xuất nông sản an toàn, công nghệ cao.
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức khoa học kỹ thuật sản xuất nông nghiệp tiên tiến, hiện đại cho nông dân; đào tạo nghề cho bộ phận con em nông dân để chuyển nghề, xuất khẩu lao động; đồng thời tập trung đào tạo nâng cao kiến thức cho cán bộ quản lý, cán bộ cơ sở. Hình thành chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo hàng năm đào tạo khoảng 1 triệu lao động nông thôn. Thực hiện tốt việc xã hội hoá công tác đào tạo nghề.
6. Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao các nguồn lực, phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân
Sửa đổi Luật Đất đai theo hướng: Tiếp tục khẳng định đất đai là sở hữu toàn dân, Nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch, kế hoạch để sử dụng có hiệu quả; giao đất cho hộ gia đình sử dụng lâu dài; mở rộng hạn mức sử dụng đất, thúc đẩy quá trình tích tụ đất đai; công nhận quyền sử dụng đất được vận động theo cơ chế thị trường, trở thành một nguồn vốn trong sản xuất, kinh doanh. Ban hành chính sách định giá bảo đảm hài hòa quyền lợi của người sử dụng đất, của nhà đầu tư và của Nhà nước trong quá trình giải tỏa, thu hồi đất. Có cơ chế khuyến khích những tổ chức, cá nhân tham gia góp vốn bằng quyền sử dụng đất để thành lập công ty, vào các dự án đầu tư, kinh doanh khi có đất bị thu hồi. Có chính sách giải quyết tốt vấn đề đất ở, nhà ở, việc làm cho người bị thu hồi đất; có quy hoạch và cơ chế bảo vệ vững chắc đất trồng lúa.
Rà soát, điều chỉnh cơ cấu đầu tư ngân sách, giảm bớt đầu tư cho các công trình có thể thu hồi vốn để tạo nguồn, tăng đầu tư phát triển cho khu vực nông nghiệp, nông thôn; tăng mạnh đầu tư ngân sách nhà nước ngay từ năm 2009 và đảm bảo 5 năm sau cao gấp 2 lần 5 năm trước. Có cơ chế điều tiết, phân bổ đầu tư ngân sách nhà nước đảm bảo lợi ích của các địa phương có điều kiện phát triển công nghiệp với các địa phương thuần nông, nhất là chuyên trồng lúa. Thực hiện rộng rãi cơ chế đấu thầu quyền khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên gắn với việc tăng cường quản lý, bảo vệ nguồn tài nguyên.
Tăng cường phân cấp thu chi ngân sách cho các địa phương, bao gồm cả cấp huyện và xã; tăng cường hỗ trợ nông dân sản xuất nông sản hàng hoá; tiếp tục dành nguồn vốn tín dụng ưu đãi và khuyến khích các ngân hàng, định chế tài chính cho vay đối với nông nghiệp, nông thôn. Có cơ chế, chính sách đủ mạnh khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, kể cả huy động vốn ODA và FDI.
Tiếp tục thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế; có biện pháp bảo vệ thị trường nội địa, phát triển thị trường xuất khẩu nông sản phù hợp với luật pháp quốc tế; nghiên cứu ban hành chính sách giá cả nông sản, nhất là giá lúa phù hợp trong quan hệ so sánh với hàng công nghiệp, bảo đảm lợi ích của người sản xuất nông nghiệp, giải quyết hài hoà lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng. Tăng cường hệ thống dự trữ quốc gia, nhất là lương thực.
7. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là hội nông dân
Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của đảng bộ, chi bộ cơ sở để thực sự là hạt nhân lãnh đạo toàn diện trên địa bàn nông thôn; củng cố và nâng cao năng lực bộ máy quản lý nông nghiệp từ Trung ương đến địa phương, nhất là cấp huyện, xã và các lĩnh vực khác ở nông thôn. Tiếp tục cải cách hành chính, tăng cường đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức xã. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn; tạo cơ chế và điều kiện thuận lợi cho Hội Nông dân Việt Nam trong việc trực tiếp thực hiện một số chương trình, dự án phục vụ sản xuất và nâng cao đời sống của nông dân, hướng dẫn phát triển các hình thức kinh tế tập thể trong nông nghiệp.
Chăm lo xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
8. Những nhiệm vụ cấp bách cần thực hiện tới năm 2010
Để đạt được mục tiêu do Đại hội Đảng lần thứ X đề ra tới năm 2010, cần tập trung chỉ đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ chính sau đây:
- Hoàn thành cơ bản việc rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch đất đai, quy hoạch phát triển nông, lâm, ngư nghiệp; công nghiệp, khu công nghiệp và quy hoạch chuyên ngành theo vùng. Triển khai nhanh công tác quy hoạch xây dựng nông thôn gắn với quy hoạch phát triển đô thị.
- Hoàn thành sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2003, Luật Ngân sách Nhà nước và các luật khác có liên quan. Bổ sung, hoàn thiện các chính sách về tăng cường nguồn lực cho nông nghiệp, nông thôn. Mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài vào sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn.
- Đảm bảo tiến độ các công trình xây dựng cơ bản phục vụ sản xuất nông nghiệp, phòng chống thiên tai; thực hiện một bước các biện pháp thích ứng và đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, nhất là nước biển dâng; khống chế, dập tắt kịp thời các dịch bệnh nguy hiểm đối với gia súc, gia cầm, thuỷ sản và cây trồng. Tăng cường công tác nghiên cứu, chuyển giao khoa học kỹ thuật, đào tạo nhân lực ở nông thôn.
- Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn nông thôn, nhất là xoá đói, giảm nghèo ở các huyện, xã có tỉ lệ hộ nghèo trên 50%. Khắc phục nhanh những vấn đề bức xúc ở nông thôn, trước hết là những tồn tại liên quan tới vấn đề thu hồi đất. Triển khai chương trình “xây dựng nông thôn mới”, trong đó thực hiện xây dựng kết cấu hạ tầng đi trước một bước.
- Tổ chức tốt việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khoá X) về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trên địa bàn nông thôn; củng cố bộ máy quản lý nhà nước về nông nghiệp.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Các tỉnh uỷ, thành uỷ, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương phải lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết, tạo sự chuyển biến thực sự về nhận thức và hành động trong toàn Đảng, toàn dân để giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn đồng bộ với các nghị quyết khác của Đảng trên địa bàn nông thôn.
Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo các cơ quan chức năng rà soát, bổ sung, sửa đổi các văn bản pháp luật liên quan đến nội dung Nghị quyết.
Ban cán sự đảng Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương, các tỉnh uỷ, thành uỷ căn cứ vào Nghị quyết triển khai các nhiệm vụ cụ thể về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với các cấp uỷ, các tổ chức đoàn thể quần chúng phát động phong trào thi đua yêu nước, tham gia tích cực thực hiện Nghị quyết, xây dựng và triển khai các chương trình “xây dựng nông thôn mới”; “bảo tồn và phát triển làng nghề” “đào tạo nguồn nhân lực”; “phát triển kinh tế hợp tác” trong nông thôn. Định kỳ sơ kết, tổng kết, nhân rộng các mô hình tốt, khen thưởng các tổ chức, cá nhân có thành tích; xử lý trách nhiệm của các cấp ủy, người đứng đầu không thực hiện nghiêm túc các chủ trương của Đảng.  
Văn phòng Trung ương Đảng phối hợp với các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết và định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư kết qủa thực hiện Nghị quyết./.
T/M BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
TỔNG BÍ THƯ
(đã ký)
Nông Đức Mạnh