Thứ Năm, 14 tháng 4, 2011

ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN


 


I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
Với mục đích vừa bảo đảm sự đồng bộ của cả hệ thống chính trị, vừa tiết kiệm thời gian, tiền của, công sức của nhân dân cả nước, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X (tháng 01 năm 2007) đã đề ra chủ trương tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc, bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp trong cùng một năm (là năm đầu của mỗi kế hoạch 5 năm). Thực hiện chủ trương này của Đảng, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 05/2007/QH12 ngày 04/8/2007 về rút ngắn một năm nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII và Nghị quyết số 25/2008/QH12 ngày 15/11/2008 về kéo dài thêm hai năm nhiệm kỳ Hội đồng nhân dân các cấp. Do vậy, năm 2011, cả nước ta tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) và tiến hành đồng thời cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2011 – 2016.
Qua tổng kết thực tiễn các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI, XII và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2004 - 2009, đã thực hiện theo các Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 và được sửa đổi, bổ sung năm 2001, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003, được tiến hành đúng tiến độ, bảo đảm an toàn, dân chủ, tiết kiệm, đúng pháp luật và đều đạt được những kết quả tích cực, thành công trên nhiều phương diện từ công tác chuẩn bị, tổ chức triển khai thực hiện đến khi kết thúc cuộc bầu cử.
Tuy nhiên, trong điều kiện tiến hành cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân trong cùng một ngày thì sẽ có một số vấn đề vướng mắc phát sinh cần phải giải quyết, do Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân có những quy định khác nhau về nội dung, trong đó vấn đề về chỉ đạo bầu cử, các tổ chức phụ trách bầu cử, số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu, trình tự, thủ tục, thời hạn thực hiện các bước trong quy trình bầu cử. Trong điều kiện hai cuộc bầu cử diễn ra cùng một thời điểm mà với các quy định khác nhau như vậy, nếu vẫn tiến hành quy trình bầu cử  độc lập theo từng luật thì sẽ rất phức tạp trong công tác chỉ đạo bầu cử, tổ chức thực hiện, gây lãng phí về thời gian, tiền của, nhân lực… Ngoài ra, còn có một số vấn đề bất cập phát sinh, trong đó có những vấn đề cần phải được nghiên cứu sâu hơn, kỹ càng hơn để đáp ứng được yêu cầu sửa đổi một cách căn bản, toàn diện và đồng bộ với các văn bản luật khác về tổ chức bộ máy nhà nước, các vấn đề liên quan đến quyền bầu cử, ứng cử của công dân như: vấn đề quốc tịch; điều kiện, tiêu chuẩn ứng cử, tự ứng cử; các bước của quy trình hiệp thương…; đồng thời cũng cần phải rà soát lại một số quy định còn hạn chế, chưa phù hợp, gây khó khăn, lúng túng cho quá trình triển khai bầu cử để sửa đổi nhằm bảo đảm sự thuận lợi cho công tác bầu cử.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN ĐƯỢC GIẢI QUYẾT TRONG LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
1. Đối với Luật bầu cử đại biểu Quốc hội:
- Về khu vực bỏ phiếu, Luật quy định mỗi khu vực bỏ phiếu có từ ba trăm đến hai nghìn cử tri. Thực tế bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII cho thấy, quy định này là chưa phù hợp với những địa phương có mật độ dân số cao, với những khu dân cư có trên hai nghìn cử tri.
- Về thành phần Tổ bầu cử, Luật quy định thành viên Tổ bầu cử gồm đại diện Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp và đại diện cử tri ở địa phương, với số lượng từ năm đến mười một người. Tuy nhiên, do phải thành lập nhiều Tồ bầu cử nên trên thực tế nhiều địa phương đã không có đại diện của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tham gia Tổ bầu cử. Đây là quy định cần được sửa đổi để bảo đảm tính khả thi trong việc tổ chức thực hiện.
- Về giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với công tác bầu cử, Luật không quy định về thẩm quyền giải quyết cho Tổ bầu cử dẫn đến các khiếu nại, tố cáo tập trung lên Ban bầu cử, gây quá tải đối với công việc của Ban bầu cử.
- Về số người ứng cử tại mỗi đơn vị bầu cử, Luật quy định số người trong danh sách ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ở đơn vị đó. Quy định này đã không giải quyết được các trường hợp khuyết người ứng cử vì lý do bất khả kháng (sau khi danh sách những người ứng cử đã được công bố nhưng do người ứng cử bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị chết hoặc vì lý do khác phải xóa tên khỏi danh sách). Đối với các đơn vị bầu cử được bầu ba người, nếu số dư chỉ có một người thì chưa thực sự bảo đảm tính dân chủ để cử tri lựa chọn.
- Về thời điểm kết thúc cuộc bỏ phiếu, Luật chưa quy định điều kiện để Tổ bầu cử có thể tuyên bố kết thúc sớm tại các khu vực bỏ phiếu khi đã có 100% cử tri đi bỏ phiếu. Do đó đã gây lúng túng cho các Tổ bầu cử khi quyết định kết thúc cuộc bỏ phiếu sớm hơn giờ quy định để có thể thực hiện các công việc khác của công tác bầu cử.
- Về thời điểm kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương, luật quy định là thời điểm sau khi Hội đồng bầu cử công bố kết quả bầu cử. Tuy nhiên quy định này là không phù hợp với thực tế vì các tổ chức phụ trách bầu cử này vẫn tiếp tục hoạt động sau khi Hội đồng bầu cử công bố kết quả bầu cử trong cả nước để thực hiện một số công việc như thông báo kết qủa bầu cử, giải quyết các vướng mắc phát sinh và quyết toán kinh phí về bầu cử…
2. Đối với Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
- Về trách nhiệm gửi biên bản và phiếu bầu của Tổ bầu cử cho các cơ quan hữu quan, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định Tổ bầu cử phải gửi biên bản kiểm phiếu, phiếu bầu và các tài liệu khác về bầu cử tới Ban bầu cử, Ủy ban nhân dân và Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn. Trong những tài liệu đó thì phiếu bầu chỉ có một bản. Vì vậy, trong tổ chức thực hiện, Tổ bầu cử lúng túng không biết chuyển phiếu bầu cho cơ quan nào.
- Về thời điểm kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cũng gặp những vướng mắc tương tự như đối với thời điểm kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Quốc hội.
- Luật chưa quy định rõ Hội đồng bầu cử phải trình cơ quan có thẩm quyền nào xem xét, quyết định việc hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm gây khó khăn trong thực hiện.
Với những vấn đề nêu trên, việc ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân là cần thiết nhằm bảo đảm cuộc bầu cử được tiến hành thuận lợi, tiết kiệm, an toàn, dân chủ và đúng pháp luật.
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT
1 Góp phần bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 – 2016 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm và thực sự là ngày hội của toàn dân, đáp  ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã  hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Kế thừa và phát huy những ưu điểm, những quy định vẫn còn  phù hợp với yêu cầu thực tiễn, khắc phục được những hạn chế, bất cập trong những quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; bảo đảm tính ổn định, đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam.

3. Tập trung sửa đổi, bổ sung một số vấn đề vướng mắc thật sự cấp bách của các luật về bầu cử do tiến hành bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp trong cùng một ngày và trong điều kiện thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường tại một số địa phương. Đối với những vấn đề khác thì cần tiếp tục nghiên cứu để tiến hành sửa đổi một cách cơ bản các luật về bầu cử trong thời gian tới.
 III. NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG TRONG LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
Luật có cấu trúc nội dung của một luật sửa đổi, bổ sung nhiều luật, gồm 4 điều, cụ thể:
-  Điều 1: quy định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội;
- Điều 2: quy định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân;
- Điều 3: quy định về việc đổi tên gọi các tổ chức phụ trách bầu cử;
- Điều 4: quy định về hiệu lực thi hành.
Các nội dung sửa đổi trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử địa biểu Hội đồng nhân dân như sau:
1.     Sửa đổi quy định về Hội đồng bầu cử ở trung ương
Việc sửa đổi được thiết kế theo hướng bên cạnh một số nhiệm vụ, quyền hạn riêng đối với bầu cử đại biểu Quốc hội thì tổ chức này còn có các nhiệm vụ, quyền hạn chung đối với cả bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, như: lãnh đạo việc tồ chức bầu cử trong cả nước; kiểm tra, đôn đốc việc thi hành các quy định của pháp luật về bầu cử; chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền và vận động bầu cử, công tác bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội trong cuộc bầu cử. Đồng thời, sửa đổi quy định về trách nhiệm chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền và vận động bầu cử của Chính phủ đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cho phù hợp. (Điểm 3 Điều 1; điểm 2, 3, 9 Điều 2).
2. Sửa đổi các quy định về thành lập các Tổ chức phụ trách bầu cử
- Thành lập Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh để thay thế và thực hiện chung nhiệm vụ, quyền hạn cửa cả Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Theo đó, các quy định về Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và quy định về Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã đã được sửa đổi thống nhất về tên gọi, thành phần, cơ quan chủ trì thành lập, thời hạn chậm nhất để thành lập với số lượng thành viên được tăng lên (Điểm 4 Điều 1; điểm 2, 4 Điều 2).
- Quy định Tổ bầu cử đồng thời thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã tại cùng một khu vực bỏ phiếu. Tổ bầu cử sẽ được tăng thêm số lượng thành viên. Sửa đổi thống nhất quy định về cơ quan chủ trì thành lập, thành phần và số lượng thành viên của Tổ bầu cử. (Điểm 6 Điều 1; điểm 6 Điều 2).
- Sửa đổi về cơ quan chủ trì thành lập, thành phần Ban bầu cử đại biểu Quốc hội, Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã nhằm bảo đảm tính thống nhất với việc thành lập tổ chức phụ trách bầu cử ở cấp tỉnh và cấp xã (Điểm 5, 15 Điều 1; điểm 5, 13 Điều 2).
- Các luật bầu cử hiện hành giao cho Thường trực Hội đông nhân dân chủ trì thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Quốc hội; giao cho Ủy ban nhân dân chủ trì thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Trong điều kiện bầu cử chung và thống nhất về tổ chức của một số tổ chức phụ trách bầu cử, Luật giao cho Ủy ban nhân dân là cơ quan chủ trì thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương để bảo đảm tính thống nhất trong toàn quốc về cơ quan chủ trì thành lập tổ chức phụ trách bầu cử (vì Ủy ban nhân dân có đầy đủ ở cả ba cấp; trong khi đó, ở các địa phương đang thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường sẽ không có Thường trực Hội đồng nhân dân).

3. Sửa đổi thống nhất quy định về số lượng cử tri tại mỗi khu vục bỏ phiếu và quy định khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội đồng thời là khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu được sửa đổi thống nhất từ ba trăm đến bốn nghìn cử tri. Với số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu được quy định với biên độ dao động từ ba trăm đến bốn nghìn cử tri sẽ vẫn bảo đảm thuận lợi cho việc bỏ phiếu của cử tri cũng như việc thành lập các khu vực bỏ phiếu; đồng thời cũng không gây quá tải về công việc đối với các Tổ bầu cử trong điều kiện đã tăng số lượng thành viên tại mỗi Tổ bầu cử (Điểm 1 Điều 1; điểm 1 Điều 2).
4. Sửa đổi thống nhất quy định về mẫu thẻ cử tri, phiếu bầu, theo đó Hội đồng bầu cử quy định mẫu thẻ cử tri, phiếu bầu của cả đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm cung cấp tài liệu bầu cử, phiếu bầu cho Ủy ban bầu cử; Ủy ban bầu cử chuyển cho Ban bầu cử, Ban bầu cử chuyển cho Tổ bầu cử để phân phát cho cử tri. Quy định như vậy là phù hợp với thực tế và làm rõ được trách nhiệm của cơ quan hành chính trong việc bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho bầu cử (Điểm 3, 4, 6 Điều 1; Điểm 3 và 4 Điều 2; ).
5. Sửa đổi thống nhất về cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản hướng dẫn việc tổ chức Hội nghị cử tri nơi làm việc và nơi cư trú đối với cả bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân được quy định theo hướng giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội phối hợp với Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điểm 8 Điều 2).
6. Về số người ứng cử mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội, để bảo đảm tính khả thi, phù hợp với thực tiễn, Luật quy định: "Số người trong danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội mỗi đơn vị bầu cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ở đơn vị đó, nếu đơn vị bầu cử đó được bầu ba đại biểu thì số người trong danh sách ứng cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ít nhất là hai người. Trong trường hợp khuyết người ứng cử vì lý do bất khả kháng thì do Hội đồng bầu cử quyết định" (Điểm 10 Điều 1).

7. Quy định về thời hạn niêm yết danh sách cử tri, thời hạn giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri, mẫu biên bản bầu cử, việc gửi biên bản, phiếu bầu và trình tự, thủ tục trong ngày bỏ phiếu như thời gian bỏ phiếu, việc kiểm tra hòm phiếu, việc bỏ phiếu của cử tri, việc đóng dấu trên thẻ cử tri . . . đã được quy định cụ thể và rõ ràng hơn (Điểm 6, 8, 9, 11, 12, 13, 14 Điều 1; Điểm 6, 10, 11 Điều 2).
8. Thời điểm kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử cũng được quy định rõ hơn nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc bầu cử chung (Điểm 7 Điều 1; điểm 7 Điều 2).
Như vậy, đã có 17 điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và 13 điều của Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân được sửa đổi; có 1 điều (mới) của Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân được bổ sung (điểm 3 Điều 2) nhằm đáp ứng yêu cầu khi tiến hành bầu cử chung đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân trong cùng một ngày và nhằm khắc phục một số hạn chế, bất cập trong công tác tổ chức bầu cử như đã trình bày ở phần trên.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân có hiệu lực từ ngày 01/01/2011. Như vậy, việc Luật này được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa XII, phù hợp với quy định về thời gian có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại Điều 78 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (không sớm hơn 45 ngày kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành), và thời điểm có hiệu lực của Luật từ ngày 01/01/2011 cũng đáp ứng yêu cầu của thời gian dự kiến công bố ngày bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân là vào cuối tháng 01 năm 2011.

ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH

         

           

Ngày 24-11-2010, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII đã thông qua Luật tố tụng hành chính. Ngày 07-12-2010, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Lệnh công bố Luật tố tụng hành chính và Luật có hiệu lực từ ngày 01-7-2011.

          I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH

          Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá IX đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân, theo đó, kể từ ngày 01-7-1996 Toà án nhân dân các cấp chính thức được giao thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính. Ngày 21-5-1996, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-7-1996 và được sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất ngày 25-12-1998 và sửa đổi, bổ sung lần thứ hai ngày 05-4-2006.
          Việc ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và các pháp lệnh sửa đổi, bổ sung đã tạo điều kiện cho việc giải quyết các khiếu kiện hành chính, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, qua thực tiễn giải quyết các vụ án hành chính trong những năm qua cho thấy các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã bộc lộ những hạn chế và bất cập; có những quy định mâu thuẫn với quy định của các văn bản quy phạm pháp luật khác (như quy định của Luật khiếu nại, tố cáo, Luật đất đai…); có những quy định chưa phù hợp (hoặc không còn phù hợp), chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có những cách hiểu khác nhau, đặc biệt là các quy định về thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính của Toà án nhân dân, điều kiện khởi kiện, thời hiệu khởi kiện, nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ… Bên cạnh đó, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính chưa có quy định cụ thể về thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính và cũng chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về vấn đề này dẫn đến thực trạng  có nhiều bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính không được thi hành hoặc không được thi hành đầy đủ. Những hạn chế, bất cập của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính nêu trên đã làm giảm hiệu quả giải quyết các vụ án hành chính của Toà án nhân dân, gây trở ngại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình.      
          Với chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với việc Việt Nam đã là thành viên của nhiều điều ước quốc tế và đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), thì việc pháp điển hoá các quy định của pháp luật tố tụng để giải quyết các khiếu kiện hành chính, cụ thể hoá các cam kết quốc tế của Việt Nam là rất cần thiết. Theo bản cam kết văn kiện gia nhập WTO của Việt Nam (đoạn 135 trang 66), thì: “Đại diện của Việt Nam xác nhận thêm rằng sẽ sửa đổi các luật và các quy định trong nước sao cho phù hợp với các yêu cầu của hiệp định WTO về thủ tục và rà soát pháp lý đối với các quyết định hành chính, trong đó bao gồm cả khoản X:3(b) của Hiệp định GATT 1994. Đại diện của Việt Nam cho biết thêm rằng các Toà án chịu trách nhiệm rà soát phải có quan điểm công bằng và độc lập với cơ quan có thẩm quyền ra quyết định hành chính và không có quyền lợi thực chất nào liên quan tới kết quả của vụ việc”. 
Ngày 02-6-2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW  về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó một trong các nhiệm vụ được xác định đó là: “... mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án đối với các khiếu kiện hành chính; đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Toà án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Toà án...”. Nghị quyết số 49-NQ/TW cũng đặt ra yêu cầu: “Xây dựng cơ chế bảo đảm cho mọi bản án của Toà án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Với những lý do trên và với tính chất đặc thù của việc giải quyết các khiếu kiện hành chính giữa một bên là cá nhân, cơ quan, tổ chức, còn bên kia là cơ quan nhà nước thì việc ban hành Luật tố tụng hành chính thay thế Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, nhằm bảo đảm tính đồng bộ và thống nhất của hệ thống pháp luật, góp phần bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân, cơ quan, tổ chức là hết sức cần thiết.
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ CÁC YÊU CẦU CỦA VIỆC SOẠN THẢO DỰ ÁN LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH 
          Việc soạn thảo Dự án Luật tố tụng hành chính đã quán triệt những quan điểm chỉ đạo và yêu cầu sau đây:
          1. Thể chế hoá các chủ trương, đường lối, quan điểm về cải cách tư pháp đã được xác định trong các nghị quyết, văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” cụ thể là: “Mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án đối với các khiếu kiện hành chính. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Toà án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Toà án”.
          2. Bảo đảm tính hợp Hiến, hợp pháp và tính thống nhất của Luật tố tụng hành chính trong hệ thống pháp luật; bảo đảm tính khả thi của Luật tố tụng hành chính.
          3. Bảo đảm trình tự và thủ tục tố tụng hành chính dân chủ, công khai, đơn giản, công bằng, thuận lợi cho người tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình; đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong hoạt động tố tụng hành chính.
          4. Kế thừa, trên cơ sở tổng kết, đánh giá các quy định của pháp Luật tố tụng hành chính hiện hành, kinh nghiệm giải quyết các vụ án hành chính từ thực tiễn xét xử của Toà án và tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài, đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn đời sống xã hội của nước ta và của quá trình hội nhập quốc tế.
          5. Bảo đảm các bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành.
          6. Bảo đảm các quy định của Luật tố tụng hành chính không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
            III. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
          Luật tố tụng hành chính gồm có 18 chương 265 điều với nội dung cụ thể như sau:

Chương I: Những quy định chung

Chương này gồm có 27 điều (từ Điều 1 đến Điều 27), quy định về hiệu lực của Luật tố tụng hành chính; về giải thích từ ngữ; về quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính; về quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện; cung cấp chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hành chính; trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hành chính; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính; trách nhiệm chuyển giao tài liệu, giấy tờ của Toà án; việc tham gia tố tụng hành chính của cá nhân, cơ quan, tổ chức và các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hành chính.

           Chương II. Thẩm quyền của Toà án
Chương này gồm có 6 điều (từ Điều 28 đến Điều 33), quy định về những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án; thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh; xác định thẩm quyền trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại, vừa có đơn khởi kiện; chuyển vụ án cho Toà án khác, giải quyết tranh chấp về thẩm quyền và vấn đề nhập hoặc tách vụ án hành chính.

Chương III. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng

 Chương này gồm có 13 điều (từ Điều 34 đến Điều 46), quy định về cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng; những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng; việc thay đổi người tiến hành tố tụng; thủ tục từ chối tiến hành tố tụng hoặc đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng và quyết định việc thay đổi người tiến hành tố tụng.

          Chương IV. Người tham gia tố tụng, quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng
Chương này gồm có 13 điều (từ Điều 47 đến Điều 59), quy định về người tham gia tố tụng; năng lực pháp luật tố tụng hành chính và năng lực hành vi tố tụng hành chính của đương sự; quyền, nghĩa vụ của đương sự; kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính; về người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch và thủ tục từ chối giám định, phiên dịch hoặc đề nghị thay đổi người giám định, người phiên dịch.
           Chương V. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Chương này gồm có 12 điều (từ Điều 60 đến Điều 71), quy định quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; thẩm quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; các biện pháp khẩn cấp tạm thời; trách nhiệm do yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng; thủ tục áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; hiệu lực của quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời và việc khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ hoặc không áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
          Chương VI. Chứng minh và chứng cứ
Chương này gồm có 20 điều (từ Điều 72 đến Điều 91), quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hành chính; những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh; về chứng cứ, nguồn chứng cứ; xác định chứng cứ; giao nộp chứng cứ; về xác minh, thu thập chứng cứ và các biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ; bảo quản chứng cứ; đánh giá chứng cứ; công bố, sử dụng và việc bảo vệ chứng cứ.
          Chương VII. Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng
 Chương này gồm có 11 điều (từ Điều 92 đến Điều 102), quy định về nghĩa vụ cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng; các văn bản tố tụng phải được cấp, tống đạt hoặc thông báo; người thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng; các phương thức cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng; tính hợp lệ của việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng; các thủ tục cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng và việc thông báo kết quả việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng.
          Chương VIII. Khởi kiện, thụ lý vụ án
 Chương này gồm có 14 điều (từ Điều 103 đến Điều 116), quy định quyền khởi kiện vụ án hành chính; thời hiệu khởi kiện; đơn khởi kiện; gửi đơn khởi kiện đến Toà án; nhận và xem xét đơn khởi kiện; yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; trả lại đơn khởi kiện; khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện; thụ lý vụ án; phân công Thẩm phán giải quyết vụ án; nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán khi lập hồ sơ vụ án; thông báo về việc thụ lý vụ án; quyền, nghĩa vụ của người được thông báo và quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
          Chương IX. Chuẩn bị xét xử
          Chương này gồm có 8 điều (từ Điều 117 đến Điều 124), quy định thời hạn chuẩn bị xét xử; việc tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính và hậu quả của việc tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án hành chính; về quyết định đưa vụ án ra xét xử và việc gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu.
            Chương X. Phiên toà sơ thẩm
Chương này gồm có 43 điều (từ Điều 125 đến Điều 167), quy định về yêu cầu chung đối với phiên toà sơ thẩm; xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục; về nội quy phiên toà; thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm; sự có mặt của thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên, đương sự và những người tham gia tố tụng khác; việc xét xử trong trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên toà; hoãn phiên toà; thời hạn, quyết định và thẩm quyền hoãn phiên toà; thủ tục ra bản án, quyết định của Toà án tại phiên toà; tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án tại phiên toà; biên bản phiên toà; khai mạc phiên toà; giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; việc bảo đảm tính khách quan của người làm chứng; hỏi và xem xét việc đương sự thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu; thay đổi địa vị tố tụng; thủ tục hỏi tại phiên toà; công bố các tài liệu của vụ án; nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi hình; xem xét vật chứng; phát biểu khi tranh luận và đối đáp; phát biểu của Kiểm sát viên; nghị án; trở lại việc hỏi và tranh luận; thẩm quyền của Hội đồng xét xử; bản án sơ thẩm; tuyên án; cấp, gửi trích lục bản án, bản án và việc sửa chữa, bổ sung bản án, quyết định của Toà án.
          Chương XI. Thủ tục giải quyết khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
          Chương này gồm có 5 điều (từ Điều 168 đến Điều 172), quy định về thủ tục nhận đơn khởi kiện và thụ lý vụ án; thời hạn giải quyết vụ án; sự có mặt của đại diện Viện kiểm sát, đương sự và hiệu lực của bản án, quyết định đình chỉ vụ án của Toà án.
          Chương XII. Thủ tục phúc thẩm
 Chương này gồm có 36 điều (từ Điều 173 đến Điều 208), quy định tính chất của xét xử phúc thẩm; người có quyền kháng cáo; đơn kháng cáo; thời hạn kháng cáo; kiểm tra đơn kháng cáo; kháng cáo quá hạn; thông báo nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm; thông báo về việc kháng cáo; về kháng nghị của Viện kiểm sát, thời hạn kháng nghị, thông báo về việc kháng nghị; hậu quả của việc kháng cáo, kháng nghị; gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo, kháng nghị; thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm; thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị; bổ sung chứng cứ mới; phạm vi xét xử phúc thẩm; thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm; thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm; sự có mặt của thành viên Hội đồng xét xử phúc thẩm, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên, đương sự và những người tham gia tố tụng khác; các trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm không phải mở phiên toà, không phải triệu tập đương sự; tạm đình chỉ, đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu; hoãn phiên toà phúc thẩm; thủ tục xét xử phúc thẩm; thủ tục giải quyết trường hợp người khởi kiện rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm; nghe lời trình bày của đương sự, Kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm; thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm; bản án phúc thẩm; thủ tục phúc thẩm đối với quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị và việc gửi bản án, quyết định phúc thẩm.
          Chương XIII. Thủ tục giám đốc thẩm
          Chương này gồm có 23 điều (từ Điều 209 đến Điều 231), quy định tính chất của giám đốc thẩm; căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; về phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm; người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; hoãn, tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; quyết định kháng nghị giám đốc thẩm; thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; gửi quyết định kháng nghị giám đốc thẩm; thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị; thành phần Hội đồng giám đốc thẩm; thẩm quyền giám đốc thẩm; những người tham gia phiên toà giám đốc thẩm; thời hạn mở phiên toà giám đốc thẩm; chuẩn bị phiên toà giám đốc thẩm; thủ tục phiên toà giám đốc thẩm; phạm vi giám đốc thẩm; thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm; quyết định giám đốc thẩm; hiệu lực của quyết định giám đốc thẩm và việc gửi quyết định giám đốc thẩm.
            Chương XIV. Thủ tục tái thẩm
            Chương này gồm có 7 điều (từ Điều 232 đến Điều 238), quy định tính chất của tái thẩm; căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm; thông báo và xác minh những tình tiết mới được phát hiện; người có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm; thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm; thẩm quyền của Hội đồng tái thẩm và việc áp dụng các quy định của thủ tục giám đốc thẩm.
          Chương XV. Thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
 Chương này có 2 điều Điều 239 và Điều 240, quy định về yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; thủ tục và thẩm quyền xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
          Chương XVI. Thủ tục thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính
Chương này gồm có 8 điều (từ Điều 241 đến Điều 248), quy định về những bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính được thi hành; giải thích bản án, quyết định của Toà án; việc thi hành bản án, quyết định của Toà án; yêu cầu thi hành bản án, quyết định của Toà án; trách nhiệm thực hiện yêu cầu thi hành án; quản lý nhà nước về thi hành án hành chính; xử lý vi phạm trong thi hành án hành chính và kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định của Toà án.
          Chương XVII. Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hành chính
          Chương này gồm có 14 điều (từ Điều 249 đến Điều 262), quy định về những quyết định, hành vi trong tố tụng hành chính có thể bị khiếu nại; quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại, người bị khiếu nại; thời hiệu khiếu nại; thẩm quyền, thời hạn giải quyết khiếu nại đối với những người tiến hành tố tụng và người giám định; về người có quyền tố cáo; quyền, nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo; thẩm quyền và thời hạn giải quyết tố cáo; thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo; trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hành chính.
          Chương XVIII. Điều khoản thi hành
Chương này gồm có 3 điều (từ Điều 263 đến Điều 265), quy định hiệu lực thi hành; về việc sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 136 và Điều 138 của Luật đất đai và trách nhiệm quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật tố tụng hành chính.
            IV. NHỮNG ĐIỂM MỚI CƠ BẢN CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
          1. Về khái niệm “quyết định hành chính”
            Theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì “quyết định hành chính” là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính.
          Do quy định về việc giải thích thuật ngữ “quyết định hành chính” như trên của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, nên dẫn đến thực tế có nhiều cách hiểu khác nhau về “quyết định hành chính”. Có ý kiến cho rằng quyết định hành chính phải là văn bản thể hiện dưới hình thức Quyết định do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước; các loại văn bản thể hiện dưới hình thức khác như kết luận, thông báo, công văn... thì không được coi là quyết định hành chính và không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Ý kiến khác lại cho rằng quyết định hành chính bao gồm cả văn bản thể hiện dưới hình thức Quyết định và văn bản thể hiện dưới hình thức khác do cơ quan nhà nước ban hành, được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính. Cũng có ý kiến cho rằng đối với văn bản của cơ quan nhà nước không được thể hiện dưới hình thức Quyết định nhưng có chứa đựng nội dung quản lý hành chính nhà nước thì không coi là quyết định hành chính mà coi đó là hành vi hành chính. Từ các cách hiểu khác nhau này, nên việc thi hành trên thực tế là chưa được thống nhất.
          Để khắc phục tồn tại nêu trên, Luật tố tụng hành chính đã quy định rất cụ thể thế nào là quyết định hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án: “Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể” (khoản 1 Điều 3).
2. Về các khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
Điều 28 Luật tố tụng hành chính quy định những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo hướng loại trừ, cụ thể là, Tòa án có thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện sau đây:
1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
2. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
3. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống.
4. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh”.
Việc quy định thẩm quyền của Tòa án giải quyết các khiếu kiện hành chính theo phương án loại trừ là phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đó là “Mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính”; đồng thời, cũng phù hợp với quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là điểm đổi mới quan trọng của Luật tố tụng hành chính so với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
3. Về quyền khởi kiện vụ án hành chính
Luật tố tụng hành chính quy định cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc trong trường hợp không đồng ý với quyết định, hành vi đó hoặc đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, nhưng hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết, nhưng không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi đó.
Đây là quy định mới của Luật tố tụng hành chính. Cá nhân, cơ quan, tổ chức nếu không đồng ý với quyết định hành chính, hành vi hành chính thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính ra Tòa án, không đặt ra điều kiện phải khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu rồi mới có quyền khởi kiện ra Tòa án như quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức lựa chọn việc khiếu nại tại cơ quan hành chính thì khi hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng họ không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại lần đầu (hoặc lần hai) thì họ vẫn có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án.
Quy định nêu trên của Luật tố tụng hành chính là nhằm dành cho người khởi kiện quyền tự do lựa chọn khiếu nại tại cơ quan hành chính hay khởi kiện vụ án tại Tòa án mà không bắt buộc phải qua thủ tục khiếu nại trước khi khởi kiện. Quy định này được coi là bước đổi mới căn bản về điều kiện, cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở nước ta theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị là: “... đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Tòa án; tạo thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng…”.
  4. Về thời hiệu khởi kiện
Luật tố tụng hành chính quy định thời hiệu khởi kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc là 01 năm, kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc.
Theo quy định tại Điều 30 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính là 30 ngày hoặc 45 ngày tuỳ theo từng trường hợp. Có thể nói, quy định thời hiệu như Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính là quá ngắn, cá nhân, cơ quan, tổ chức không có đủ thời gian để chuẩn bị chứng cứ, lựa chọn, nhờ tư vấn trước khi khởi kiện... Tuy nhiên, nếu quy định như thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự (02 năm) thì lại quá dài, không phù hợp với tính chất đặc thù của việc giải quyết các khiếu kiện hành chính. Vì vậy, việc quy định thời hiệu khởi kiện của Luật tố tụng hành chính (Điều 104) là phù hợp, bảo đảm cho cá nhân, cơ quan, tổ chức có thời gian chuẩn bị tốt cho việc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án và phù hợp với tính chất đặc thù của khiếu kiện hành chính.
5. Về xác định thẩm quyền trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại, vừa có đơn khởi kiện
Điều 31 Luật tố tụng hành chính quy định: Trường hợp người khởi kiện có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thẩm quyền giải quyết theo sự lựa chọn của người khởi kiện.
Đây cũng là quy định mới so với pháp luật hiện hành. Quy định như Luật tố tụng hành chính là thể hiện tính dân chủ của Nhà nước ta, thể hiện sự tôn trọng việc tự lựa chọn của người khởi kiện, bảo đảm quyền và lợi ích cho người khởi kiện.
6. Chứng minh và chứng cứ trong tố tụng hành chính
Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng của Luật tố tụng hành chính. Luật tố tụng hành chính quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh của đương sự và nhiệm vụ của Tòa án thu thập chứng cứ trong tố tụng hành chính.
6.1. Về quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự
Theo quy định tại Điều 8 và Điều 72 Luật tố tụng hành chính thì đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án hành chính, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Tòa án; nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy đủ đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (khoản 1 Điều 77).
Việc quy định như trên sẽ nâng cao trách nhiệm của đương sự trong việc chứng minh và giao nộp chứng cứ cho Tòa án bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc hành chính được chính xác, kịp thời.
6.2. Về trách nhiệm của Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ
Luật tố tụng hành chính quy định Tòa án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do Luật này quy định. Thủ tục thu thập chứng cứ được quy định cụ thể tại Điều 78 và các điều tương ứng khác của Luật tố tụng hành chính; cụ thể là: Trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu hoặc xét thấy cần thiết, Tòa án có thể tự mình hoặc ủy thác tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ để làm rõ các tình tiết của vụ án. Các biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ bao gồm: Lấy lời khai của đương sự; lấy lời khai người làm chứng; đối chất; xem xét, thẩm định tại chỗ; trưng cầu giám định; quyết định định giá tài sản, thẩm định giá tài sản; ủy thác thu thập chứng cứ; yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ.
Trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà không thể tự mình thu thập được thì có thể yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính đúng đắn. Đương sự yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ phải làm đơn ghi rõ vấn đề cần chứng minh, chứng cứ cần thu thập và lý do vì sao tự mình không thu thập được.
Tòa án có thể trực tiếp hoặc bằng văn bản yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ cung cấp cho mình chứng cứ.
6.3. Về trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ cho đương sự, Tòa án, Viện Kiểm sát
Luật tố tụng hành chính quy định cụ thể cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án, Viện Kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện Kiểm sát; trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Tòa án, Viện Kiểm sát biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được tài liệu, chứng cứ. Thời hạn cung cấp chứng cứ cho Tòa án, Viện Kiểm sát là 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án, Viện Kiểm sát.
Quy định này rất cần thiết, ràng buộc trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức, tạo điều kiện cho Tòa án sớm thu thập được chứng cứ để giải quyết nhanh và chính xác vụ án hành chính.
7. Về việc yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Kế thừa các quy định về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính; tham khảo các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời của Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính quy định quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Điều 60. Các căn cứ và mục đích của việc yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định cụ thể. Trong quá trình giải quyết vụ án, biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án.
  Điểm mới về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Luật tố tụng hành chính là quy định người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không phải thực hiện biện pháp bảo đảm. Sở dĩ Luật quy định như vậy là vì về nguyên tắc, khi đã ra trước Tòa án, các bên đương sự đều bình đẳng trước pháp luật. Nếu quy định người dân khi yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải thực hiện biện pháp bảo đảm, thì đối với người bị kiện là cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước khi yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng phải thực hiện biện pháp bảo đảm. Với tính chất đặc thù của khiếu kiện hành chính - bên khởi kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức, còn bên bị kiện là cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước thì có thể thấy rằng bên khởi kiện thường có phần yếu thế hơn so với bên bị kiện. Vì vậy, nếu quy định người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải thực hiện biện pháp bảo đảm thì có phần hạn chế quyền của người dân được yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đặc biệt là đối với đương sự thuộc diện nghèo, điều kiện kinh tế khó khăn...
8. Về sự tham gia tố tụng hành chính của Viện Kiểm sát nhân dân
8.1. Về quyền khởi tố vụ án của Viện kiểm sát nhân dân
 Điểm mới so với quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính là Luật tố tụng hành chính không quy định quyền khởi tố vụ án hành chính của Viện Kiểm sát nhân dân. Việc không quy định quyền khởi tố vụ án hành chính của Viện Kiểm sát nhân dân trong Luật tố tụng hành chính xuất phát từ những lý do: Theo quy định của Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân và của pháp Luật tố tụng hành chính hiện hành thì Viện Kiểm sát nhân dân là cơ quan tiến hành tố tụng, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân là người tiến hành tố tụng tại phiên tòa; do đó, nếu quy định Viện Kiểm sát nhân dân có quyền khởi tố vụ án hành chính với vai trò của người tham gia tố tụng là không phù hợp với chức năng của Viện Kiểm sát. Mặt khác, mặc dù Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã quy định thẩm quyền này cho Viện Kiểm sát, nhưng thực tiễn 14 năm qua, Viện Kiểm sát nhân dân chưa khởi tố vụ án hành chính nào.
Luật tố tụng hành chính không quy định quyền khởi tố vụ án hành chính của Viện Kiểm sát nhân dân, nhưng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một số đối tượng nhất định, Luật đã bổ sung quyền của Viện Kiểm sát nhân dân trong việc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền cử người giám hộ đứng ra khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền và lợi ích cho các đối tượng đó; cụ thể là: Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, nếu họ không có người khởi kiện thì Viện Kiểm sát có quyền kiến nghị Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú cử người giám hộ đứng ra khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người đó (khoản 3 Điều 23).
8.2. Về phát biểu của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tại phiên tòa
Điểm mới của Luật tố tụng hành chính so với quy định hiện hành về phát biểu của Kiểm sát viên là: Tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa không phát biểu quan điểm của Viện Kiểm sát về việc giải quyết vụ án, cụ thể là: Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng hành chính, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án (Điều 160). Quy định như vậy vừa bảo đảm Viện Kiểm sát thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình trong tố tụng hành chính, phù hợp với từng giai đoạn tố tụng, vừa bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
9. Về sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tại phiên tòa
Điều 131 Luật tố tụng hành chính quy định sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tại phiên tòa, theo đó, Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt; trường hợp có người vắng mặt thì Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng thì hậu quả sẽ là:
- Đối với người khởi kiện, người đại diện theo pháp luật mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người khởi kiện có quyền khởi kiện lại, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn;
- Đối với người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ;
- Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập của mình và Tòa án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án đối với yêu cầu độc lập của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập đó, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn;
- Đối với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.
Quy định trên đây của Luật tố tụng hành chính là cần thiết nhằm bảo đảm cho sự có mặt tại Tòa án, tại phiên tòa của những người tham gia tố tụng nêu trên theo giấy triệu tập của Tòa án, thể hiện nghĩa vụ tôn trọng Tòa án của họ.
10. Về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm
Đây cũng là quy định mới của Luật tố tụng hành chính so với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, theo đó, khi giải quyết vụ án hành chính, Hội đồng xét xử sơ thẩm có quyền quyết định:
- Bác yêu cầu khởi kiện, nếu yêu cầu đó không có căn cứ pháp luật;
- Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính trái pháp luật; buộc cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật;
- Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên bố một số hoặc toàn bộ các hành vi hành chính là trái pháp luật; buộc cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước chấm dứt hành vi hành chính trái pháp luật;
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy quyết định kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật; buộc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật;
- Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh trái pháp luật; buộc cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh giải quyết lại vụ việc theo quy định của Luật Cạnh tranh;
- Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; buộc cơ quan lập danh sách cử tri sửa đổi, bổ sung danh sách cử tri theo quy định của pháp luật;
- Buộc cơ quan, tổ chức bồi thường thiệt hại, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm phạm do quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh trái pháp luật gây ra;
- Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người đứng đầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước.
Việc quy định cụ thể thẩm quyền của Hội đồng xét xử như trên sẽ bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được cụ thể, rõ ràng, tạo điều kiện cho việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính được thuận lợi, có hiệu quả; đồng thời, giúp cho việc xác định trách nhiệm đối với người không chấp hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được dễ dàng hơn.
11. Về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Điểm mới so với các quy định hiện hành về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là Luật tố tụng hành chính quy định thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thông thường là 02 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Đối với trường hợp đương sự đã có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhưng quá thời hạn 02 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật mới phát hiện bản án, quyết định của Tòa án có sai lầm nghiêm trọng thì người có quyền kháng nghị vẫn được kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
12. Về xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Điều 239 và Điều 240 của Luật tố tụng hành chính quy định quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao khi có căn cứ xác định có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, đương sự không biết được khi ra quyết định đó thì được xem xét lại nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Theo yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- Theo kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội;
- Theo kiến nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Đây là điểm mới của Luật tố tụng hành chính so với các quy định của pháp luật hiện hành. Luật tố tụng hành chính quy định cơ chế cho phép Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tự xem xét lại quyết định của mình là xuất phát từ yêu cầu thực tiễn công tác xét xử của Tòa án và trên tinh thần Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Việc quy định như vậy là nhằm mục đích bảo vệ tốt nhất quyền và lợi hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
13. Về thi hành án hành chính
Luật tố tụng hành chính quy định cụ thể về việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, bao gồm: Những bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính được thi hành; giải thích bản án, quyết định của Tòa án; thi hành bản án, quyết định của Tòa án; yêu cầu thi hành bản án, quyết định của Tòa án; trách nhiệm thực hiện yêu cầu thi hành án; quản lý nhà nước về thi hành án hành chính; xử lý vi phạm trong thi hành án hành chính và kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án.
Có thể nói, các quy định cụ thể về trách nhiệm của người phải thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, về quyền yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, trách nhiệm thực hiện yêu cầu về thi hành án cũng như việc đôn đốc, kiểm sát trong công tác thi hành án hành chính... là để khắc phục những tồn tại, vướng mắc trong việc thi hành án hành chính trong thời gian qua và bảo đảm hiệu quả của việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế.
Ngoài những điểm mới trên thì với quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật là “Một văn bản quy phạm pháp luật có thể được ban hành để đồng thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ, bãi bỏ nội dung trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành”, Luật tố tụng hành chính đã có một điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai để bảo đảm tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật.
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Cùng với việc thông qua Luật tố tụng hành chính, ngày 24-11-2010, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII cũng đã thông qua Nghị quyết về việc thi hành Luật tố tụng hành chính (Nghị quyết số 56/2010/QH12). Để thi hành Luật tố tụng hành chính và Nghị quyết số 56/2010/QH12 thì cần triển khai các hoạt động sau đây:
1. Các cơ quan có thẩm quyền khẩn trương xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật tố tụng hành chính và Nghị quyết số 56/2010/QH12.
2. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung của Luật tố tụng hành chính trong cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân nhằm đưa các quy định của Luật đi vào cuộc sống, nâng cao ý thức, trách nhiệm của từng cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện các quy định của Luật, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phát huy tác dụng của Luật trong việc bảo vệ trật tự quản lý hành chính nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
3. Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình khẩn trương củng cố cơ sở vật chất; bổ sung, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đối với đội ngũ công chức của ngành Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự để bảo đảm đáp ứng yêu cầu giải quyết các vụ án và thi hành án hành chính.